Tu chân cửu yếu
Tu chân cửu yếu
Thê Vân Sơn Tố Phác tán nhân Ngộ Nguyên Tử Lưu Nhất Minh sáng tác
Môn nhân Trương Dương Toàn duyệt lại
Hậu học Hoài Thanh thị in lại
Dịch: Trương Vô Kỵ
Tựa Tu chân cửu yếu
Thê Vân Sơn Tố Phác tán nhân Ngộ Nguyên Tử Lưu Nhất Minh sáng tác
Môn nhân Trương Dương Toàn duyệt lại
Hậu học Hoài Thanh thị in lại
Dịch: Trương Vô Kỵ
Tựa Tu chân cửu yếu
Đạo tu chân là việc lớn nhất trong thiên hạ, cũng là việc khó nhất trong thiên hạ. Vì nó rất lớn và rất khó, nên cổ nhân đều gọi là việc hiếm có trong thiên hạ. Việc này, nếu không hiểu sâu tạo hóa, hiểu rõ Âm Dương, giữ chí lâu bền không đổi, tuần tự mà tiến, thì không thể thi hành được. Người học sau này, chẳng thèm nghiên cứu xem việc này là việc gì, chưa từng học đạo, mà liền muốn thành đạo; chưa từng học làm người, mà liền muốn làm Tiên. Chẳng lạ là người tu đạo như lông trâu, mà người thành đạo như sừng lân vậy.
Ta từ nhỏ mộ đạo, chưa gặp được bậc chính nhân, chẳng phân biệt thị phi, như rối trí như khổ sở, cơ hồ thụ hại. May gặp thầy ta là Kham Cốc lão nhân, thoảng nghe lời ngọc, mới biết sai lầm từ trước của mình, cũng biết đạo nhân trong thiên hạ quá nửa là nhầm.
Nhân thuật lại ý của thầy ta, đề ra cương lĩnh tu chân, tóm lại chín điều, tên là Tu chân cửu yếu. Phép này từ nông đến sâu, từ thấp lên cao, vì người mới học mà làm một cái bậc thang. Bất luận học đạo, tu đạo, cứ theo cửu yếu, tuần tự mà nhập, cuối cùng tất học được thâm sâu, còn có thể biết được manh sư minh sư , luận được tà đạo chính đạo. Dù không thể thi hành cái việc hi hữu trong thiên hạ này, cũng có thể biết là có cái việc hi hữu trong thiên hạ này, tiếp là không để uổng phí tháng năm, uổng sống trong kiếp này.
Năm Mậu Ngọ, nhà Đại Thanh, năm Gia Khánh thứ ba, ngày mùng 9 tháng 8, Thê Vân sơn Tố Phác tán nhân Ngộ Nguyên Tử Lưu Nhất Minh tự viết bài tựa trong Tự Tại Oa.
Ta từ nhỏ mộ đạo, chưa gặp được bậc chính nhân, chẳng phân biệt thị phi, như rối trí như khổ sở, cơ hồ thụ hại. May gặp thầy ta là Kham Cốc lão nhân, thoảng nghe lời ngọc, mới biết sai lầm từ trước của mình, cũng biết đạo nhân trong thiên hạ quá nửa là nhầm.
Nhân thuật lại ý của thầy ta, đề ra cương lĩnh tu chân, tóm lại chín điều, tên là Tu chân cửu yếu. Phép này từ nông đến sâu, từ thấp lên cao, vì người mới học mà làm một cái bậc thang. Bất luận học đạo, tu đạo, cứ theo cửu yếu, tuần tự mà nhập, cuối cùng tất học được thâm sâu, còn có thể biết được manh sư minh sư , luận được tà đạo chính đạo. Dù không thể thi hành cái việc hi hữu trong thiên hạ này, cũng có thể biết là có cái việc hi hữu trong thiên hạ này, tiếp là không để uổng phí tháng năm, uổng sống trong kiếp này.
Năm Mậu Ngọ, nhà Đại Thanh, năm Gia Khánh thứ ba, ngày mùng 9 tháng 8, Thê Vân sơn Tố Phác tán nhân Ngộ Nguyên Tử Lưu Nhất Minh tự viết bài tựa trong Tự Tại Oa.
Đệ nhất yếu
Khám phá thế sự
Khám phá thế sự
Chao ôi! Nhân sinh ở đời, như mộng ảo bóng nước, trăm năm tuế nguyệt, chỉ trong chớp mắt. Khi Vô Thường tới, dù có bạc vàng chất đống, mà chẳng mua được Tính Mệnh; hiếu tử hiền tôn, phân không hết ưu sầu. Nếu không sớm thu xếp, thì lúc lâm sự tay chân bấn loạn, Diêm Vương lão tử chẳng chịu lưu tình, một khi đã mất thân người thì vạn kiếp trầm luân. Kẻ có chí với Đạo, cần đem cái cửa ải này nhanh chóng mở ra, mới thông được ra con đường lớn.
Nếu chẳng vậy, trần duyên không đoạn, mà vọng tưởng thành đạo sao. Tuy thân đã xuất gia, mà tâm chưa từng xuất gia, nhất cử nhất động, chẳng qua là công phu hay dùng ở thế tục, lúc đi lúc đứng, đều là công việc ở nhân tình, không chỉ không thể thành đạo, mà còn hết cách để nghe đạo, quý báu gì xuất gia như vậy? Xưa đến nay vô số người học, phần nhiều dẫm vào vết này. Vì vậy mà người học đạo như lông trâu, người đạt đạo như sừng lân.
Ngộ Chân nói: “Thí vấn đôi kim như đại nhạc, vô thường mãi đích bất lai vô? - Thử hỏi bạc vàng cao như núi, mua được Vô Thường không đến không”.
Liễu đạo ca nói: “Tiên tương thế sự tề phóng hạ, hậu bả đạo lí tế nghiên tinh. - Đầu tiên đem thế sự nhất tề buông bỏ, sau đem đạo lí nghiên cứu kĩ càng”
Là nói thế sự đều là giả, Tính Mệnh cực Chân, muốn biết cái Chân, đầu tiên phải bỏ cái giả vậy.
Vì sao thế? Khi nhận cái giả, thì tâm phục dịch cái giả, một cái giả thì không gì không giả, càng ngày càng xa Đạo, thì không phải là người tự quý Tính Mệnh. Không tự quý Tính Mệnh, thì huyền hư chẳng thật, uổng qua năm tháng, đến già thì chết, có ích gì đâu?
Xưa Lữ tổ nhân một giấc mộng mà các tư tưởng lập tức giải thoát, Mã tổ nhân gặp cái chết mà thành đạo rất nhanh, là vì đầu tiên khám phá thế sự rồi sau đó tu chân. Vì thế thành chân liễu đạo còn dễ với người khác, huống gì người xuất gia tu hành tất nhiên phải khám phá thế sự. Nếu chưa khám phá mà cưỡng xuất gia, hữu danh vô thực, vốn muốn đăng thiên mà ngược lại bị rơi xuống đất, nhanh chóng thất bại, há không uổng phí tâm cơ sao?
Ta mong người học, bất luận tại gia hay xuất gia, nếu muốn biện luận về đại sự thiết thân, đầu tiên đem thế sự thăm dò qua một lượt. Thăm dò đi thăm dò lại, thăm dò đến một chỗ không có một chút mùi vị, mới biết vạn duyên đều là không, Tính Mệnh là việc lớn, từ đây đem toàn bộ các việc hư giả ngoài thân xóa bỏ toàn bộ. Chân đi thực địa, tầm sư phỏng hữu, dũng mãnh tinh tiến, vì Đạo quên mình, tự nhiên lòng thành cảm động trời cao, tổ sư âm thầm nâng đỡ, sẽ có chân nhân độ dẫn vậy.
Nếu chẳng vậy, trần duyên không đoạn, mà vọng tưởng thành đạo sao. Tuy thân đã xuất gia, mà tâm chưa từng xuất gia, nhất cử nhất động, chẳng qua là công phu hay dùng ở thế tục, lúc đi lúc đứng, đều là công việc ở nhân tình, không chỉ không thể thành đạo, mà còn hết cách để nghe đạo, quý báu gì xuất gia như vậy? Xưa đến nay vô số người học, phần nhiều dẫm vào vết này. Vì vậy mà người học đạo như lông trâu, người đạt đạo như sừng lân.
Ngộ Chân nói: “Thí vấn đôi kim như đại nhạc, vô thường mãi đích bất lai vô? - Thử hỏi bạc vàng cao như núi, mua được Vô Thường không đến không”.
Liễu đạo ca nói: “Tiên tương thế sự tề phóng hạ, hậu bả đạo lí tế nghiên tinh. - Đầu tiên đem thế sự nhất tề buông bỏ, sau đem đạo lí nghiên cứu kĩ càng”
Là nói thế sự đều là giả, Tính Mệnh cực Chân, muốn biết cái Chân, đầu tiên phải bỏ cái giả vậy.
Vì sao thế? Khi nhận cái giả, thì tâm phục dịch cái giả, một cái giả thì không gì không giả, càng ngày càng xa Đạo, thì không phải là người tự quý Tính Mệnh. Không tự quý Tính Mệnh, thì huyền hư chẳng thật, uổng qua năm tháng, đến già thì chết, có ích gì đâu?
Xưa Lữ tổ nhân một giấc mộng mà các tư tưởng lập tức giải thoát, Mã tổ nhân gặp cái chết mà thành đạo rất nhanh, là vì đầu tiên khám phá thế sự rồi sau đó tu chân. Vì thế thành chân liễu đạo còn dễ với người khác, huống gì người xuất gia tu hành tất nhiên phải khám phá thế sự. Nếu chưa khám phá mà cưỡng xuất gia, hữu danh vô thực, vốn muốn đăng thiên mà ngược lại bị rơi xuống đất, nhanh chóng thất bại, há không uổng phí tâm cơ sao?
Ta mong người học, bất luận tại gia hay xuất gia, nếu muốn biện luận về đại sự thiết thân, đầu tiên đem thế sự thăm dò qua một lượt. Thăm dò đi thăm dò lại, thăm dò đến một chỗ không có một chút mùi vị, mới biết vạn duyên đều là không, Tính Mệnh là việc lớn, từ đây đem toàn bộ các việc hư giả ngoài thân xóa bỏ toàn bộ. Chân đi thực địa, tầm sư phỏng hữu, dũng mãnh tinh tiến, vì Đạo quên mình, tự nhiên lòng thành cảm động trời cao, tổ sư âm thầm nâng đỡ, sẽ có chân nhân độ dẫn vậy.
Đệ nhị yếu
Tích đức tu hành
Tích đức tu hành
Ngộ Chân nói: “Nhược phi tu hành tích âm đức, động hữu quần ma tác chướng duyên. - Nếu không tu hành tích âm đức, thì động có quần ma làm ra các duyên chướng” có thể biết tích đức tu hành là việc cần thiết của người tu đạo. Nếu rời xa Đức để nói Đạo, thì là dị đoan tà thuyết, bàng môn ngoại đạo, sai lầm nhiều vậy. Nên thánh nhân đời xưa, đầu tiên phải hiểu rõ đạo; hiền nhân đời xưa, đầu tiên phải tích đức. Chưa từng có ai không hiểu rõ đạo mà có thể là thánh, chưa từng có ai không tích đức mà có thể thành người hiền.
Nhưng muốn mong thánh đầu tiên phải mong hiền, nếu muốn thành đạo đầu tiên phải tích đức. Đạo và Đức lưỡng dụng, trong ngoài giúp nhau, thì đắc cái sự nghiệp học của thánh hiền vậy. Đạo là việc của ta, Đức là việc người. Tu đạo có tận cùng mà tích đức thì vô cùng. Từ xưa đến nay, sau khi tiên phật thần thánh thành đạo, còn phải hòa quang đồng trần, tích lũy công hạnh, đợi đến tam thiên công mãn, bát bách hành hoàn , mới nhận Thiên Chiếu.
Huống gì Kim Đan Đại Đạo bị quỷ thần căm ghét, chẳng phải người đại trung đại hiếu thì không thể biết, chẳng phải người đại hiền đại đức thì chẳng dám truyền. Nếu cưỡng truyền mà bị biết, quỷ thần không vui, thế tất ngầm giáng tai ương, đẩy nhanh thọ số. Chẳng những vô ích, mà còn có hại.
Ta từ khi được Kham Cốc tiên ông chỉ dạy, coi đại công là điều hoài bão, mỗi lần gặp kẻ chí sĩ, liền muốn tiếp dẫn, thỉnh thoảng hơi bảo cho biết đầu mối, sau đó từ từ xem xét. Không lâu sau thì họ tự mãn tự túc, nên chẳng thể vào sâu, cuối cùng đến càng lâu ngày càng lười nhác, chí khí mất cả. Họ tiếc tham phiền não, quá cả người thường. Trước sau vài người, đều như vậy cả. Ôi! Bọn đó chắc là tổ tiên vô đức, tự mình vô hạnh, chỉ vì đầu tiên chăm chỉ cuối cùng lười nhác, nên mê mất chân tông, mà không thể vãn hồi vậy.
Ta vì tự mình không cẩn thận, lỡ lời nói với bọn phỉ đồ, cũng gặp nhiều ma chướng. May mà không quan hệ lớn, chân bảo chưa bị cướp đi. Xem xét điều này, sau liền giấu lưỡi, không dám khinh lộ phong thanh, mà phải đợi người có đại lực mới dốc túi truyền trao vậy.
Người học ở đời mới nhập môn hộ, thẳng coi thần tiên là công việc rất dễ, mà liền lừa dối thập phương, không sợ gì cả. Tuyệt không nghĩ một mảy một may đều là mồ hôi và máu của thập phương; một chén nước một miếng cơm đều là khổ lực của chúng sinh. Hoặc có kẻ dùng lời miệng lưỡi về thiền để lôi kéo người; hoặc có kẻ dùng giả đạo pháp để thu nhiếp tiền tài; hoặc có kẻ dùng thuật Hoàng Bạch để âm mưu lừa bịp; thiên phương bách kế, không thể đếm xuể. Sau này mắc nợ mười phần tiền của, không biết tiêu hóa thế nào đây. Cổ nhân nói: “Lưỡng chỉ giác hoặc hữu hoặc vô, nhất điều vĩ thiên định vạn định - Hai cái sừng có thể có hoặc không, một cái đuôi trăm ngàn chắc chắn ”, phải bọn đó không?
Người có chí với Đạo, cần coi đức hạnh là trọng, tự lập tiết tháo, không được hồ đồ gây sự, để lỡ mất tiền trình. Thế nào là Đức? Giúp người già giúp kẻ nghèo, thương kẻ cô quả, bố thí thuốc men, sửa cầu sửa đường, phù nguy cứu khốn, khinh tài trọng nghĩa, thi hành rộng rãi các điều tiện lợi là vậy. Thế nào là Hạnh? Ta chịu khó làm lợi cho người, chăm chỉ làm việc vất vả ở trần gian, thi đức mà không mong báo, có oán mà không kết thù, có công mà không khoe, có khó khăn không ngại, gặp việc nghĩa là phải làm là vậy.
Hay tích đức, hay lập hạnh, càng lâu càng cố gắng, đức phục quỷ thần, phẩm hạnh vượt kẻ tầm thường, cao nhân mà gặp, chắc chắn xem xét, có hi vọng về Đại Đạo vậy. Nếu không vậy, không tích dù chỉ một đức, không sửa dù chỉ một hành vi, vọng tưởng thành đạo, ngẫu nhiên mà gặp cao nhân, giấu cái xấu mà nêu ra cái tốt, tự nói có thể lừa người, thực không biết người ta nhìn mình, như thấy cả gan ruột vậy.
Còn có những kẻ không chăm chú vào bổn phận, tác nghiệt trăm điều, sáng rượu chè rồi tối phấn son, miệng đạo đức mà tâm đạo chích, hại người lợi ta, ngàn kì trăm quái, không biết tự hối, lại quay lại oán tự mình vô phúc vô duyên, mà phỉ báng Đan Kinh toàn lời nói dối. Lúc chuyển thế trong địa ngục, bị đầu thai vào dị loại, mong làm người còn chẳng được, sao dám mong thành tiên đây.
Ôi! Đức là việc của tự thân nhân thế; Đạo là việc thầy truyền mà thành tiên. Không tích đức mà muốn tu đạo, nhân sự còn chẳng thể, Tiên Đạo sao thành được, có thể không suy nghĩ sao?
Nhưng muốn mong thánh đầu tiên phải mong hiền, nếu muốn thành đạo đầu tiên phải tích đức. Đạo và Đức lưỡng dụng, trong ngoài giúp nhau, thì đắc cái sự nghiệp học của thánh hiền vậy. Đạo là việc của ta, Đức là việc người. Tu đạo có tận cùng mà tích đức thì vô cùng. Từ xưa đến nay, sau khi tiên phật thần thánh thành đạo, còn phải hòa quang đồng trần, tích lũy công hạnh, đợi đến tam thiên công mãn, bát bách hành hoàn , mới nhận Thiên Chiếu.
Huống gì Kim Đan Đại Đạo bị quỷ thần căm ghét, chẳng phải người đại trung đại hiếu thì không thể biết, chẳng phải người đại hiền đại đức thì chẳng dám truyền. Nếu cưỡng truyền mà bị biết, quỷ thần không vui, thế tất ngầm giáng tai ương, đẩy nhanh thọ số. Chẳng những vô ích, mà còn có hại.
Ta từ khi được Kham Cốc tiên ông chỉ dạy, coi đại công là điều hoài bão, mỗi lần gặp kẻ chí sĩ, liền muốn tiếp dẫn, thỉnh thoảng hơi bảo cho biết đầu mối, sau đó từ từ xem xét. Không lâu sau thì họ tự mãn tự túc, nên chẳng thể vào sâu, cuối cùng đến càng lâu ngày càng lười nhác, chí khí mất cả. Họ tiếc tham phiền não, quá cả người thường. Trước sau vài người, đều như vậy cả. Ôi! Bọn đó chắc là tổ tiên vô đức, tự mình vô hạnh, chỉ vì đầu tiên chăm chỉ cuối cùng lười nhác, nên mê mất chân tông, mà không thể vãn hồi vậy.
Ta vì tự mình không cẩn thận, lỡ lời nói với bọn phỉ đồ, cũng gặp nhiều ma chướng. May mà không quan hệ lớn, chân bảo chưa bị cướp đi. Xem xét điều này, sau liền giấu lưỡi, không dám khinh lộ phong thanh, mà phải đợi người có đại lực mới dốc túi truyền trao vậy.
Người học ở đời mới nhập môn hộ, thẳng coi thần tiên là công việc rất dễ, mà liền lừa dối thập phương, không sợ gì cả. Tuyệt không nghĩ một mảy một may đều là mồ hôi và máu của thập phương; một chén nước một miếng cơm đều là khổ lực của chúng sinh. Hoặc có kẻ dùng lời miệng lưỡi về thiền để lôi kéo người; hoặc có kẻ dùng giả đạo pháp để thu nhiếp tiền tài; hoặc có kẻ dùng thuật Hoàng Bạch để âm mưu lừa bịp; thiên phương bách kế, không thể đếm xuể. Sau này mắc nợ mười phần tiền của, không biết tiêu hóa thế nào đây. Cổ nhân nói: “Lưỡng chỉ giác hoặc hữu hoặc vô, nhất điều vĩ thiên định vạn định - Hai cái sừng có thể có hoặc không, một cái đuôi trăm ngàn chắc chắn ”, phải bọn đó không?
Người có chí với Đạo, cần coi đức hạnh là trọng, tự lập tiết tháo, không được hồ đồ gây sự, để lỡ mất tiền trình. Thế nào là Đức? Giúp người già giúp kẻ nghèo, thương kẻ cô quả, bố thí thuốc men, sửa cầu sửa đường, phù nguy cứu khốn, khinh tài trọng nghĩa, thi hành rộng rãi các điều tiện lợi là vậy. Thế nào là Hạnh? Ta chịu khó làm lợi cho người, chăm chỉ làm việc vất vả ở trần gian, thi đức mà không mong báo, có oán mà không kết thù, có công mà không khoe, có khó khăn không ngại, gặp việc nghĩa là phải làm là vậy.
Hay tích đức, hay lập hạnh, càng lâu càng cố gắng, đức phục quỷ thần, phẩm hạnh vượt kẻ tầm thường, cao nhân mà gặp, chắc chắn xem xét, có hi vọng về Đại Đạo vậy. Nếu không vậy, không tích dù chỉ một đức, không sửa dù chỉ một hành vi, vọng tưởng thành đạo, ngẫu nhiên mà gặp cao nhân, giấu cái xấu mà nêu ra cái tốt, tự nói có thể lừa người, thực không biết người ta nhìn mình, như thấy cả gan ruột vậy.
Còn có những kẻ không chăm chú vào bổn phận, tác nghiệt trăm điều, sáng rượu chè rồi tối phấn son, miệng đạo đức mà tâm đạo chích, hại người lợi ta, ngàn kì trăm quái, không biết tự hối, lại quay lại oán tự mình vô phúc vô duyên, mà phỉ báng Đan Kinh toàn lời nói dối. Lúc chuyển thế trong địa ngục, bị đầu thai vào dị loại, mong làm người còn chẳng được, sao dám mong thành tiên đây.
Ôi! Đức là việc của tự thân nhân thế; Đạo là việc thầy truyền mà thành tiên. Không tích đức mà muốn tu đạo, nhân sự còn chẳng thể, Tiên Đạo sao thành được, có thể không suy nghĩ sao?
Đệ tam yếu
Tận tâm cùng lí
Tận tâm cùng lí
[Thuyết quái truyện] nói: “Cùng lí tận tính, dĩ chí vu mệnh. - Xét đến cùng về Lí, hiểu tường tận về Tính cho đến Mệnh” có thể thấy cái học tận Tính chí Mệnh, toàn nhờ vào việc xét đến tận cùng về Lí mà định thị phi vậy.
Thấu triệt đến cùng về Lí, thì Tính có thể toàn vẹn, Mệnh có thể bảo, thẳng vào chỗ Vô Thượng Chí Chân; không thấy được tận cùng về Lí, thì Mệnh khó tu, Tính khó liễu, cuối cùng hối hận đến già mà chẳng ích gì. Người học ngày nay, hồ đồ xuất gia, hồ đồ học đạo, hồ đồ tu hành, sống thì đã hồ đồ, lúc chết sao có thể trong sáng được? Tính Mệnh là việc thế nào, mà ngươi làm bừa như vậy!
Đạo Kim Đan, là đạo bao la trời đất, đạo trộm đoạt tạo hóa vậy, chí tôn chí quý, chí thần chí diệu, không dễ dàng biết được đâu. Người học không nghĩ xem Tính Mệnh của mình là vật gì, chẳng phân biện pháp ngôn của tổ sư có nghĩa gì, chỉ suốt ngày ăn no, chẳng dụng tâm chút nào, nghĩ ngợi lung tung về diệu kỳ của một câu nửa chữ, mà liền muốn thành đạo, ngày thì lêu lổng lung tung, đêm thì kê cao gối ngủ ngon lành, coi Đan Kinh là lời vô dụng, coi Tử Thư là lời sáo rỗng dối người. Giả xưng người có đạo, lấy sai dẫn sai, cuồng mong thành chân, lấy mù dụ mù. Liền có một hai kẻ có lòng tin, cũng chẳng qua là cưỡi ngựa xem hoa, đâu đã từng suy nghĩ sâu sắc, nghiên cứu đến cùng thực lí.
Cổ nhân cũng có nói: “Nhược hoàn chỉ thượng tầm chân nghĩa, biến địa đô thị đại la tiên - Nếu chỉ tìm chân nghĩa trên giấy, thì mặt đất này đầy Đại La Tiên”, là riêng vì kẻ không chịu cầu thầy mà nói ra, chứ không phải nói Đan Kinh, Tử Thư là vô dụng. Người sau này không biết ý của cổ nhân, phần nhiều dựa vào đó làm bằng chứng, mà liền không thèm hỏi đến kinh thư, thật sai lầm, thật sai lầm.
Pháp ngôn của Tiên Chân, một chữ một ý đều không dám xằng bậy đưa ra, một lời nửa câu đều tàng diệu nghĩa, không biết tốn hết bao nhiêu tấm lòng nhân ái, vì đời sau mà làm cái thang tốt, vì giáo môn mà lưu lại những điều quan trọng. Nay ngươi quay lại phỉ báng, tội đó còn có thể nói được sao! Sau này, cao nhân hiền sĩ có sáng tác hay làm gì đó, nói chung đều ở trong phạm vi của cổ nhân, xét đến cùng sự thực, vị tất cao hơn cổ nhân. Cao nhân đời này không lừa người học, thì có thể thấy tiên chân đời xưa chẳng mê hoặc người đời sau đâu.
Ta khuyên kẻ có chí, lấy pháp ngôn của cổ nhân, xem xét tỉ mỉ đến tận cùng, nhất quyết cầu thầy, thông tiền đạt hậu, không còn một điểm nghi hoặc, mới có thể thi hành, cẩn thận mắc phải sai lầm tự coi mình là thông minh, mà cho rằng ta là nhất chẳng coi ai ra gì; cũng không được chỉ nghe phong thanh, mà để người mê hoặc ta; nga như người học mà không thông văn tự, cũng cần ở tục ngữ thường ngôn, mà biện luận ra nghĩa thực. Vì Đại Đạo tàng ở trong tục ngữ thường ngôn, chỉ do người chưa nghĩ sâu thôi.
Như “một thể diện”, “một nhân hình”, “hữu khiếu đạo”, “hảo tự tại”, “điên tam đảo tứ”, “tùy phương tựu viên”, “tùy cơ ứng biến”, “sa lí đào kim”, “vô trung sinh hữu”, “thất tử bát hoạt”, “hữu kỉ vô nhân”, “bất tri tử hoạt”, “bất cố tính mệnh”, “chỉ tri hữu kỉ, bất tri hữu nhân”, “tẩu tam gia bất như thủ nhất gia”, “lễ hạ vu nhân, tất hữu sở đắc”, “chỉ tri kì nhất, bất tri kì nhị”, những câu này là đại lộ thiên cơ, rút lấy một hai câu có sao đâu, mà làm cái để tham ngộ, sáng xem chiều nghĩ. Dù không rõ ý chính, mà tri thức dần rộng mở, càng gần với Đạo, cũng không uổng phí tháng năm.
Học đến tận cùng về lí, bất luận hiền ngu, ai ai cũng có thể làm được, nếu công phu chăm chỉ không thiếu, thì lâu ngày sẽ tự có sở ngộ. Nhưng cái ngộ đó là ý kiến riêng của mình, không được hạ thủ lung tung. Nếu gặp minh sư, thì cần phải thấu triệt từ đầu đến cuối, truy cứu đến mức rõ ràng, hiểu rõ thấu triệt, đắc tâm ứng thủ, mới không lầm lẫn.
Nếu biết trước mà không biết sau, hay biết sau mà không biết trước, biết Âm mà không biết Dương, biết Dương mà không biết Âm, biết thể mà không biết dụng, biết dụng mà không biết thể, hoặc biết hữu vi mà không biết vô vi, hoặc biết vô vi mà không biết hữu vi, hoặc thấy Huyền Quan mà không biết Dược sinh, hoặc biết Dược mà không biết già non, hoặc biết kết Đan mà không biết phục Đan, hoặc biết kết Thai mà không biết thoát Thai, hoặc biết Văn đun mà không biết Vũ luyện, hoặc biết Vũ luyện mà không biết Văn đun, hoặc biết Dương Hỏa mà không biết Âm Phù, hoặc biết Tiến Hỏa mà không biết chỉ túc , hoặc biết ôn dưỡng mà không biết trừu thiêm, chỉ sai một li là đi ngàn dặm, chưa thể thành Chân.
Không chỉ như vậy, mà còn Âm Dương có trong ngoài, Ngũ Hành có chân giả. Hai đoạn công phu Tính Mệnh, trước sau hai trời cách biệt, có chân có giả, có giả trong chân, có chân trong giả, có chân trong chân, có giả trong giả. Các chỗ quan trọng này nếu nghiên cứu không thấu triệt, thì đi mà không đến; luận mà không rõ, thì làm mà không thành.
Vì thế Lữ Tổ ba lần Hoàn Đan mà chưa thành, sau được [Nhập Dược Kính] của Thôi Công mà mới hoàn thành công phu; tổ Tử Dương có cái lo về phong lôi lúc nửa đêm, lại tiếp tục tu trì mà mới xong việc. Như hai vị này, là lãnh tụ trong các thần tiên, một chút không rõ, còn có chỗ không dự liệu được, huống gì người khác đây? Người học cần thật lưu ý.
Đệ tứ yếu
Phỏng cầu chân sư
Cổ tiên nói: “Nhược vô sư chỉ nhân tri đích, thiên thượng thần tiên vô trụ xử - Nếu không thầy chỉ mà người tự biết được, thì thần tiên trên trời không chỗ mà ở”.
Tiếp nữa [Ngộ chân] nói: “Nhiêu quân thông tuệ quá Nhan Mẫn, bất ngộ chân sư mạc cưỡng sai - Mặc anh thông tuệ hơn Nhan Mẫn, không gặp chân sư chớ đoán xằng”.
Thật là đúng về cái học Tính Mệnh, phải có thầy truyền, không thể đoán xằng đoán bậy mà biết được, xưa tổ Đạo Quang đốn ngộ viên thông, mà tự biết nhất định phải tiếp tục vươn lên, sau gặp được tổ Hạnh Lâm mà thành Đại Đạo; tổ Thượng Dương dù được khẩu quyết của Duyên Đốc, mà không dám tự coi là đủ, còn phải gặp Thanh Thành mà mới đủ hỏa hậu; tổ Tam Phong chịu khổ qua hơn mười năm ở Tung Sơn, chẳng đắc được gì, sau cảm động được Trịnh Lữ nhị tiên chỉ điểm, mới biết đại sự. Dù là nghề mọn thuật con ở thế gian, còn phải nhờ thầy truyền mới biết, huống gì Tính Mệnh đại sự, há có thể không thầy mà biết?
Vì đạo Tính Mệnh, là trộm Âm Dương, đoạt tạo hóa, chuyển sinh sát, bắt Khí Cơ, là cái đạo Tiên Thiên mà trời không trái, quỷ thần không thể dò, cỏ thi mai rùa không thể bói ra được, người được nó liền bước lên đất thánh, sang thẳng Bỉ Ngạn, là việc lớn nhất thiên hạ, là việc khó nhất thiên hạ, nếu không phải Thánh sư ghé tai truyền ngôn, làm sao mà biết được?
Chỉ là bàng môn 3.600 môn, Đan pháp 72 phẩm, lấy tà hại chính, lấy giả loạn chân, ai là manh sư , ai là minh sư, thật khó luận rõ. Nhưng luận rõ cũng dễ, thường là cao nhân xuất thế, tự mệnh bất phàm, độc huyền tuyệt điều , không kết giao bừa bãi, không nịnh đời, không đồng đảng, không cần danh, chẳng nhờ tiền tài, không mưu lợi, không dối người, không quái đản, một câu một lời, đều có ích với thế đạo, đi hay đứng, đều có ích lớn cho thánh giáo. Tham, sân, si, ái đều không có. Ý, tất, cố, ngã đều hóa hết. Phẩm tiết thanh cao, ai ai cũng không thể bằng, tấm lòng rộng mở, chẳng ai đạt được.
Thảng hoặc đề cử chí sĩ, cũng phải vất vả trăm chiều, thử nghiệm chân giả, nếu thực là ngọc quý không vết, mới dám chỉ ra đầu mối; nếu là kẻ xấu, thì quyết không dám tiết lộ thiên cơ. Vì thế mà là minh sư vậy. Nếu như manh sư chả có gì mà coi là có, rỗng tuếch mà coi là đầy, chẳng dám tự nghĩ mình sai, lại đem cách sai ra dạy người. Có kẻ chỉ nam nữ là Âm Dương, có kẻ coi gạo thường là Thử Châu, có kẻ coi Lô Hỏa là Ngoại Đan, có kẻ luyện Tâm Thận là Nội Đan, có kẻ coi tồn tưởng là ngưng thần, có kẻ thi hành Tý Ngọ trừu thiêm, có kẻ vận chuyển Lộc Lô là Chu Thiên, có kẻ nhận ngoan không là vô vi, có kẻ coi vận Khí là hữu vi, có kẻ coi vong hình là tu tĩnh, có kẻ luyện thụy là Thoái Âm, có kẻ uống Lưu Hoàng là Tiến Dương, có kẻ nhịn ăn ngũ cốc để kéo dài tuổi thọ, đủ loại như vậy, không sao đếm xiết.
Cái bọn ấy, công đức không nói, tiết tháo không lập, thân mặc áo vá mà eo lưng giắt túi tiền, đầu đội mũ cài trâm mà tâm như rắn rít, thấy phú quý thì lưu tâm, gặp khốn khổ thì quên đạo, uống rượu ăn thịt, chẳng quan tâm đến mồ hôi và máu của thập phương, mất danh dự, bại giáo quy, có hay vạn kiếp trầm luân; lúc làm việc, chỉ dụng công ở chỗ tiền tài, khi cử động, toàn phí tâm tư vào quần áo và ăn uống, vừa lậy một cái, liền thu làm đồ đệ, một chén trà một bữa cơm, liền truyền đạo luôn, mượn môn hộ của thánh hiền, mà tự lừa dối thế nhân, trộm pháp ngôn của Tiên Phật, mà tác yêu tác quái, chỉ biết thân mình no ấm, quản gì người khác sống chết.
Người học nếu nghe thấy nói năng như vậy mà không xét kỹ hành vi, mà coi là kẻ hữu đạo, thì chưa có ai không mắc vào lưới mà làm thương hại Tính Mệnh. Huống gì bị lời đó mê hoặc, nhận giả làm chân, cố kết không gỡ được, tuy có cao chân thánh sư muốn nâng đỡ, cũng chẳng có cửa mà vào.
Đạo nhân trong thiên hạ gặp cái khó này, không chỉ một đâu. Bọn tu hành áo đen áo vàng, đi đông đi tây, ai không có vài tập công án? Ai không có vài câu sáo ngữ? Chỉ dựa vào mấy lời nói suông mà chọn người, thì ai ai cũng là Phật, người người là Tiên. Xin hỏi, người học đạo ngàn ngàn vạn vạn, người thành đạo được bao lăm?
Đại để thánh hiền không thường gặp, Tiên Phật chẳng được nhiều, vì không thường thấy, không được nhiều, nên là cao nhân. Cao nhân hơn hẳn đồng loại, vượt hẳn hơn người, há vì vài lời nói suông mà thành cao nhân! Năm xưa thầy ta bí mật truyền một phép thử đá thử vàng, giỏi về phân biệt thân phận cao thấp của người. Nếu gặp người tu hành, lấy tửu sắc tài khí mà thử, nếu có thể không động tâm, tất là kẻ phi phàm, bèn lấy [Ngộ Chân], [Tham Đồng] ra căn vặn, mà ứng đối trôi chảy, tức là minh sư. Thí nghiệm nhiều lần, bách phát bách trúng, nguyện đem phép này, dâng tặng các vị cùng chí hướng.
Thấu triệt đến cùng về Lí, thì Tính có thể toàn vẹn, Mệnh có thể bảo, thẳng vào chỗ Vô Thượng Chí Chân; không thấy được tận cùng về Lí, thì Mệnh khó tu, Tính khó liễu, cuối cùng hối hận đến già mà chẳng ích gì. Người học ngày nay, hồ đồ xuất gia, hồ đồ học đạo, hồ đồ tu hành, sống thì đã hồ đồ, lúc chết sao có thể trong sáng được? Tính Mệnh là việc thế nào, mà ngươi làm bừa như vậy!
Đạo Kim Đan, là đạo bao la trời đất, đạo trộm đoạt tạo hóa vậy, chí tôn chí quý, chí thần chí diệu, không dễ dàng biết được đâu. Người học không nghĩ xem Tính Mệnh của mình là vật gì, chẳng phân biện pháp ngôn của tổ sư có nghĩa gì, chỉ suốt ngày ăn no, chẳng dụng tâm chút nào, nghĩ ngợi lung tung về diệu kỳ của một câu nửa chữ, mà liền muốn thành đạo, ngày thì lêu lổng lung tung, đêm thì kê cao gối ngủ ngon lành, coi Đan Kinh là lời vô dụng, coi Tử Thư là lời sáo rỗng dối người. Giả xưng người có đạo, lấy sai dẫn sai, cuồng mong thành chân, lấy mù dụ mù. Liền có một hai kẻ có lòng tin, cũng chẳng qua là cưỡi ngựa xem hoa, đâu đã từng suy nghĩ sâu sắc, nghiên cứu đến cùng thực lí.
Cổ nhân cũng có nói: “Nhược hoàn chỉ thượng tầm chân nghĩa, biến địa đô thị đại la tiên - Nếu chỉ tìm chân nghĩa trên giấy, thì mặt đất này đầy Đại La Tiên”, là riêng vì kẻ không chịu cầu thầy mà nói ra, chứ không phải nói Đan Kinh, Tử Thư là vô dụng. Người sau này không biết ý của cổ nhân, phần nhiều dựa vào đó làm bằng chứng, mà liền không thèm hỏi đến kinh thư, thật sai lầm, thật sai lầm.
Pháp ngôn của Tiên Chân, một chữ một ý đều không dám xằng bậy đưa ra, một lời nửa câu đều tàng diệu nghĩa, không biết tốn hết bao nhiêu tấm lòng nhân ái, vì đời sau mà làm cái thang tốt, vì giáo môn mà lưu lại những điều quan trọng. Nay ngươi quay lại phỉ báng, tội đó còn có thể nói được sao! Sau này, cao nhân hiền sĩ có sáng tác hay làm gì đó, nói chung đều ở trong phạm vi của cổ nhân, xét đến cùng sự thực, vị tất cao hơn cổ nhân. Cao nhân đời này không lừa người học, thì có thể thấy tiên chân đời xưa chẳng mê hoặc người đời sau đâu.
Ta khuyên kẻ có chí, lấy pháp ngôn của cổ nhân, xem xét tỉ mỉ đến tận cùng, nhất quyết cầu thầy, thông tiền đạt hậu, không còn một điểm nghi hoặc, mới có thể thi hành, cẩn thận mắc phải sai lầm tự coi mình là thông minh, mà cho rằng ta là nhất chẳng coi ai ra gì; cũng không được chỉ nghe phong thanh, mà để người mê hoặc ta; nga như người học mà không thông văn tự, cũng cần ở tục ngữ thường ngôn, mà biện luận ra nghĩa thực. Vì Đại Đạo tàng ở trong tục ngữ thường ngôn, chỉ do người chưa nghĩ sâu thôi.
Như “một thể diện”, “một nhân hình”, “hữu khiếu đạo”, “hảo tự tại”, “điên tam đảo tứ”, “tùy phương tựu viên”, “tùy cơ ứng biến”, “sa lí đào kim”, “vô trung sinh hữu”, “thất tử bát hoạt”, “hữu kỉ vô nhân”, “bất tri tử hoạt”, “bất cố tính mệnh”, “chỉ tri hữu kỉ, bất tri hữu nhân”, “tẩu tam gia bất như thủ nhất gia”, “lễ hạ vu nhân, tất hữu sở đắc”, “chỉ tri kì nhất, bất tri kì nhị”, những câu này là đại lộ thiên cơ, rút lấy một hai câu có sao đâu, mà làm cái để tham ngộ, sáng xem chiều nghĩ. Dù không rõ ý chính, mà tri thức dần rộng mở, càng gần với Đạo, cũng không uổng phí tháng năm.
Học đến tận cùng về lí, bất luận hiền ngu, ai ai cũng có thể làm được, nếu công phu chăm chỉ không thiếu, thì lâu ngày sẽ tự có sở ngộ. Nhưng cái ngộ đó là ý kiến riêng của mình, không được hạ thủ lung tung. Nếu gặp minh sư, thì cần phải thấu triệt từ đầu đến cuối, truy cứu đến mức rõ ràng, hiểu rõ thấu triệt, đắc tâm ứng thủ, mới không lầm lẫn.
Nếu biết trước mà không biết sau, hay biết sau mà không biết trước, biết Âm mà không biết Dương, biết Dương mà không biết Âm, biết thể mà không biết dụng, biết dụng mà không biết thể, hoặc biết hữu vi mà không biết vô vi, hoặc biết vô vi mà không biết hữu vi, hoặc thấy Huyền Quan mà không biết Dược sinh, hoặc biết Dược mà không biết già non, hoặc biết kết Đan mà không biết phục Đan, hoặc biết kết Thai mà không biết thoát Thai, hoặc biết Văn đun mà không biết Vũ luyện, hoặc biết Vũ luyện mà không biết Văn đun, hoặc biết Dương Hỏa mà không biết Âm Phù, hoặc biết Tiến Hỏa mà không biết chỉ túc , hoặc biết ôn dưỡng mà không biết trừu thiêm, chỉ sai một li là đi ngàn dặm, chưa thể thành Chân.
Không chỉ như vậy, mà còn Âm Dương có trong ngoài, Ngũ Hành có chân giả. Hai đoạn công phu Tính Mệnh, trước sau hai trời cách biệt, có chân có giả, có giả trong chân, có chân trong giả, có chân trong chân, có giả trong giả. Các chỗ quan trọng này nếu nghiên cứu không thấu triệt, thì đi mà không đến; luận mà không rõ, thì làm mà không thành.
Vì thế Lữ Tổ ba lần Hoàn Đan mà chưa thành, sau được [Nhập Dược Kính] của Thôi Công mà mới hoàn thành công phu; tổ Tử Dương có cái lo về phong lôi lúc nửa đêm, lại tiếp tục tu trì mà mới xong việc. Như hai vị này, là lãnh tụ trong các thần tiên, một chút không rõ, còn có chỗ không dự liệu được, huống gì người khác đây? Người học cần thật lưu ý.
Đệ tứ yếu
Phỏng cầu chân sư
Cổ tiên nói: “Nhược vô sư chỉ nhân tri đích, thiên thượng thần tiên vô trụ xử - Nếu không thầy chỉ mà người tự biết được, thì thần tiên trên trời không chỗ mà ở”.
Tiếp nữa [Ngộ chân] nói: “Nhiêu quân thông tuệ quá Nhan Mẫn, bất ngộ chân sư mạc cưỡng sai - Mặc anh thông tuệ hơn Nhan Mẫn, không gặp chân sư chớ đoán xằng”.
Thật là đúng về cái học Tính Mệnh, phải có thầy truyền, không thể đoán xằng đoán bậy mà biết được, xưa tổ Đạo Quang đốn ngộ viên thông, mà tự biết nhất định phải tiếp tục vươn lên, sau gặp được tổ Hạnh Lâm mà thành Đại Đạo; tổ Thượng Dương dù được khẩu quyết của Duyên Đốc, mà không dám tự coi là đủ, còn phải gặp Thanh Thành mà mới đủ hỏa hậu; tổ Tam Phong chịu khổ qua hơn mười năm ở Tung Sơn, chẳng đắc được gì, sau cảm động được Trịnh Lữ nhị tiên chỉ điểm, mới biết đại sự. Dù là nghề mọn thuật con ở thế gian, còn phải nhờ thầy truyền mới biết, huống gì Tính Mệnh đại sự, há có thể không thầy mà biết?
Vì đạo Tính Mệnh, là trộm Âm Dương, đoạt tạo hóa, chuyển sinh sát, bắt Khí Cơ, là cái đạo Tiên Thiên mà trời không trái, quỷ thần không thể dò, cỏ thi mai rùa không thể bói ra được, người được nó liền bước lên đất thánh, sang thẳng Bỉ Ngạn, là việc lớn nhất thiên hạ, là việc khó nhất thiên hạ, nếu không phải Thánh sư ghé tai truyền ngôn, làm sao mà biết được?
Chỉ là bàng môn 3.600 môn, Đan pháp 72 phẩm, lấy tà hại chính, lấy giả loạn chân, ai là manh sư , ai là minh sư, thật khó luận rõ. Nhưng luận rõ cũng dễ, thường là cao nhân xuất thế, tự mệnh bất phàm, độc huyền tuyệt điều , không kết giao bừa bãi, không nịnh đời, không đồng đảng, không cần danh, chẳng nhờ tiền tài, không mưu lợi, không dối người, không quái đản, một câu một lời, đều có ích với thế đạo, đi hay đứng, đều có ích lớn cho thánh giáo. Tham, sân, si, ái đều không có. Ý, tất, cố, ngã đều hóa hết. Phẩm tiết thanh cao, ai ai cũng không thể bằng, tấm lòng rộng mở, chẳng ai đạt được.
Thảng hoặc đề cử chí sĩ, cũng phải vất vả trăm chiều, thử nghiệm chân giả, nếu thực là ngọc quý không vết, mới dám chỉ ra đầu mối; nếu là kẻ xấu, thì quyết không dám tiết lộ thiên cơ. Vì thế mà là minh sư vậy. Nếu như manh sư chả có gì mà coi là có, rỗng tuếch mà coi là đầy, chẳng dám tự nghĩ mình sai, lại đem cách sai ra dạy người. Có kẻ chỉ nam nữ là Âm Dương, có kẻ coi gạo thường là Thử Châu, có kẻ coi Lô Hỏa là Ngoại Đan, có kẻ luyện Tâm Thận là Nội Đan, có kẻ coi tồn tưởng là ngưng thần, có kẻ thi hành Tý Ngọ trừu thiêm, có kẻ vận chuyển Lộc Lô là Chu Thiên, có kẻ nhận ngoan không là vô vi, có kẻ coi vận Khí là hữu vi, có kẻ coi vong hình là tu tĩnh, có kẻ luyện thụy là Thoái Âm, có kẻ uống Lưu Hoàng là Tiến Dương, có kẻ nhịn ăn ngũ cốc để kéo dài tuổi thọ, đủ loại như vậy, không sao đếm xiết.
Cái bọn ấy, công đức không nói, tiết tháo không lập, thân mặc áo vá mà eo lưng giắt túi tiền, đầu đội mũ cài trâm mà tâm như rắn rít, thấy phú quý thì lưu tâm, gặp khốn khổ thì quên đạo, uống rượu ăn thịt, chẳng quan tâm đến mồ hôi và máu của thập phương, mất danh dự, bại giáo quy, có hay vạn kiếp trầm luân; lúc làm việc, chỉ dụng công ở chỗ tiền tài, khi cử động, toàn phí tâm tư vào quần áo và ăn uống, vừa lậy một cái, liền thu làm đồ đệ, một chén trà một bữa cơm, liền truyền đạo luôn, mượn môn hộ của thánh hiền, mà tự lừa dối thế nhân, trộm pháp ngôn của Tiên Phật, mà tác yêu tác quái, chỉ biết thân mình no ấm, quản gì người khác sống chết.
Người học nếu nghe thấy nói năng như vậy mà không xét kỹ hành vi, mà coi là kẻ hữu đạo, thì chưa có ai không mắc vào lưới mà làm thương hại Tính Mệnh. Huống gì bị lời đó mê hoặc, nhận giả làm chân, cố kết không gỡ được, tuy có cao chân thánh sư muốn nâng đỡ, cũng chẳng có cửa mà vào.
Đạo nhân trong thiên hạ gặp cái khó này, không chỉ một đâu. Bọn tu hành áo đen áo vàng, đi đông đi tây, ai không có vài tập công án? Ai không có vài câu sáo ngữ? Chỉ dựa vào mấy lời nói suông mà chọn người, thì ai ai cũng là Phật, người người là Tiên. Xin hỏi, người học đạo ngàn ngàn vạn vạn, người thành đạo được bao lăm?
Đại để thánh hiền không thường gặp, Tiên Phật chẳng được nhiều, vì không thường thấy, không được nhiều, nên là cao nhân. Cao nhân hơn hẳn đồng loại, vượt hẳn hơn người, há vì vài lời nói suông mà thành cao nhân! Năm xưa thầy ta bí mật truyền một phép thử đá thử vàng, giỏi về phân biệt thân phận cao thấp của người. Nếu gặp người tu hành, lấy tửu sắc tài khí mà thử, nếu có thể không động tâm, tất là kẻ phi phàm, bèn lấy [Ngộ Chân], [Tham Đồng] ra căn vặn, mà ứng đối trôi chảy, tức là minh sư. Thí nghiệm nhiều lần, bách phát bách trúng, nguyện đem phép này, dâng tặng các vị cùng chí hướng.
Đệ ngũ yếu
Luyện Kỉ Trúc Cơ
[Thấm viên xuân] nói: “Thất phản Hoàn Đan, tại nhân tu tiên luyện kỉ đãi thì - Thẩt phản Hoàn Đan, là ở người ta đầu tiên Luyện Kỉ đợi thời”.
[Ngộ chân thiên] nói: “Nhược yếu tu thành cửu chuyển, tiên tu luyện kỉ trì tâm - Nếu muốn tu thành cửu chuyển, đầu tiên cần Luyện Kỉ giữ tâm”.
Vì đạo tu chân, thì Hoàn Đan rất dễ, mà Luyện Kỉ rất khó, nếu không Luyện Kỉ mà muốn Hoàn Đan, thì tuyệt không có lí này. Hoàn Đan giống như cột chính của phòng ốc; Luyện Kỉ giống như nền móng của phòng ốc. Nếu chưa xây đắp nền móng, thì cột chính không chỗ mà dựng; chưa từng Luyện Kỉ, thì Hoàn Đan không thể ngưng kết.
Người học đắc khẩu quyết của thầy, cần nhanh chóng Luyện Kỉ, Luyện Kỉ thuần thục, thì lúc vào Lô, kinh nghiệm đầy mình, đắc tâm ứng thủ, Diên Hống trộn nhau, Tình Tính tương hợp, tự nhiên không bị cái họa có rồi lại mất.
Chỉ vì người ta từ lúc sinh ra đến nay, Dương cực sinh Âm, Tiên Thiên chạy mất, Hậu Thiên chiếm quyền, vật cũ năm xưa, hoàn toàn chẳng còn là của ta, thêm vào trăm cái ưu phiền cảm nhiễm vào tâm, vạn sự làm lao nhọc thân thể, Tinh rò rỉ, Thần hôn mê, Khí suy bại, coi ảo thân này giống như nồi hỏng hũ vỡ. Nồi hỏng hũ vỡ, không chứa được nước; thân thể con người suy bại, thì hoàn không được Đan, cũng là một lí cả. Nên tuy là Hậu Thiên giả vật, không phải là dược liệu để Hoàn Đan, nhưng chưa Hoàn Đan, thì vẫn còn phải nhờ cậy nó để thành công, và cũng không được có tổn thương.
Cổ nhân nói: “Nhược vô thử mộng ảo, đại sự hà do bạn? Nhược hoàn đại sự bạn, hà dụng thử mộng ảo? - Nếu không có mộng ảo này, thì đại sự làm từ đâu? Nếu còn làm đại sự, thì dùng mộng ảo thế nào?”
Lại nói: “Bất phạ Tiên Thiên vô chân chủng, chỉ phạ Hậu Thiên bất phong quang - Chẳng sợ không có Chân Chủng của Tiên Thiên, chỉ sợ Hậu Thiên không tươi tốt”.
Vì Hậu Thiên đủ thì Tiên Thiên có thể hồi phục, Tiên Thiên hồi phục thì Hậu Thiên có thể hóa, công phu Luyện Kỉ Trúc Cơ, há có thể coi thường!
Thế nào là Luyện Kỉ? Bớt tham, không ái là Luyện Kỉ; giữ chắc Âm Tinh là Luyện Kỉ; rèn luyện ma ngủ là Luyện Kỉ; vất vả làm lợi cho người là Luyện Kỉ; ra sức làm việc là Luyện Kỉ; lòng chẳng kể công, bỏ hết thế sự là Luyện Kỉ; dũng mãnh tinh tiến, coi Đạo là nhiệm vụ của ta là Luyện Kỉ; chân bước thực địa, bước nào cũng cố gắng là Luyện Kỉ; phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất là Luyện Kỉ; bị hạt hoài ngọc, đại trí nhược ngu, đại xảo nhược chuyết là Luyện Kỉ. Công phu Luyện Kỉ khá nhiều, tóm lại là lấy vô kỉ làm mục tiêu hướng đến.
Lão Tử nói: “Ngô chi sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân, cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn? - Ta sở dĩ có nỗi lo lớn, là vì ta có thân, đến lúc ta không có thân, thì ta có lo gì”.
Luyện Kỉ mà luyện đến lúc vô kỉ, ngoại kì thân nhi thân tồn , Hậu Thiên ổn thỏa, nền móng kiên cố, Tiên Thiên Chân Dương quay lại, trộn vào nhau thành một. “Tiên Thiên Khí, Hậu Thiên Khí, đắc chi giả, thường tự túy” , chỉ trong một giờ đảm bảo Đan thành.
Nếu chưa Luyện Kỉ, mà vội thi hành công phu nhất thời, thì Hậu Thiên không vững chắc, Tiên Thiên tuy gần trong gang tấc, mà chưa chắc đã là của ta. Vì là Diên đến mà Hống đón lầm, Khảm tới mà Li không nhận, anh tới mà tôi không đợi vậy.
Ôi! Lúc Trúc Cơ cần dùng Thác Thược, lúc Luyện Kỉ lại cần Chân Diên. Luyện Kỉ Trúc Cơ, há dễ làm sao!
Luyện Kỉ Trúc Cơ
[Thấm viên xuân] nói: “Thất phản Hoàn Đan, tại nhân tu tiên luyện kỉ đãi thì - Thẩt phản Hoàn Đan, là ở người ta đầu tiên Luyện Kỉ đợi thời”.
[Ngộ chân thiên] nói: “Nhược yếu tu thành cửu chuyển, tiên tu luyện kỉ trì tâm - Nếu muốn tu thành cửu chuyển, đầu tiên cần Luyện Kỉ giữ tâm”.
Vì đạo tu chân, thì Hoàn Đan rất dễ, mà Luyện Kỉ rất khó, nếu không Luyện Kỉ mà muốn Hoàn Đan, thì tuyệt không có lí này. Hoàn Đan giống như cột chính của phòng ốc; Luyện Kỉ giống như nền móng của phòng ốc. Nếu chưa xây đắp nền móng, thì cột chính không chỗ mà dựng; chưa từng Luyện Kỉ, thì Hoàn Đan không thể ngưng kết.
Người học đắc khẩu quyết của thầy, cần nhanh chóng Luyện Kỉ, Luyện Kỉ thuần thục, thì lúc vào Lô, kinh nghiệm đầy mình, đắc tâm ứng thủ, Diên Hống trộn nhau, Tình Tính tương hợp, tự nhiên không bị cái họa có rồi lại mất.
Chỉ vì người ta từ lúc sinh ra đến nay, Dương cực sinh Âm, Tiên Thiên chạy mất, Hậu Thiên chiếm quyền, vật cũ năm xưa, hoàn toàn chẳng còn là của ta, thêm vào trăm cái ưu phiền cảm nhiễm vào tâm, vạn sự làm lao nhọc thân thể, Tinh rò rỉ, Thần hôn mê, Khí suy bại, coi ảo thân này giống như nồi hỏng hũ vỡ. Nồi hỏng hũ vỡ, không chứa được nước; thân thể con người suy bại, thì hoàn không được Đan, cũng là một lí cả. Nên tuy là Hậu Thiên giả vật, không phải là dược liệu để Hoàn Đan, nhưng chưa Hoàn Đan, thì vẫn còn phải nhờ cậy nó để thành công, và cũng không được có tổn thương.
Cổ nhân nói: “Nhược vô thử mộng ảo, đại sự hà do bạn? Nhược hoàn đại sự bạn, hà dụng thử mộng ảo? - Nếu không có mộng ảo này, thì đại sự làm từ đâu? Nếu còn làm đại sự, thì dùng mộng ảo thế nào?”
Lại nói: “Bất phạ Tiên Thiên vô chân chủng, chỉ phạ Hậu Thiên bất phong quang - Chẳng sợ không có Chân Chủng của Tiên Thiên, chỉ sợ Hậu Thiên không tươi tốt”.
Vì Hậu Thiên đủ thì Tiên Thiên có thể hồi phục, Tiên Thiên hồi phục thì Hậu Thiên có thể hóa, công phu Luyện Kỉ Trúc Cơ, há có thể coi thường!
Thế nào là Luyện Kỉ? Bớt tham, không ái là Luyện Kỉ; giữ chắc Âm Tinh là Luyện Kỉ; rèn luyện ma ngủ là Luyện Kỉ; vất vả làm lợi cho người là Luyện Kỉ; ra sức làm việc là Luyện Kỉ; lòng chẳng kể công, bỏ hết thế sự là Luyện Kỉ; dũng mãnh tinh tiến, coi Đạo là nhiệm vụ của ta là Luyện Kỉ; chân bước thực địa, bước nào cũng cố gắng là Luyện Kỉ; phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất là Luyện Kỉ; bị hạt hoài ngọc, đại trí nhược ngu, đại xảo nhược chuyết là Luyện Kỉ. Công phu Luyện Kỉ khá nhiều, tóm lại là lấy vô kỉ làm mục tiêu hướng đến.
Lão Tử nói: “Ngô chi sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân, cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn? - Ta sở dĩ có nỗi lo lớn, là vì ta có thân, đến lúc ta không có thân, thì ta có lo gì”.
Luyện Kỉ mà luyện đến lúc vô kỉ, ngoại kì thân nhi thân tồn , Hậu Thiên ổn thỏa, nền móng kiên cố, Tiên Thiên Chân Dương quay lại, trộn vào nhau thành một. “Tiên Thiên Khí, Hậu Thiên Khí, đắc chi giả, thường tự túy” , chỉ trong một giờ đảm bảo Đan thành.
Nếu chưa Luyện Kỉ, mà vội thi hành công phu nhất thời, thì Hậu Thiên không vững chắc, Tiên Thiên tuy gần trong gang tấc, mà chưa chắc đã là của ta. Vì là Diên đến mà Hống đón lầm, Khảm tới mà Li không nhận, anh tới mà tôi không đợi vậy.
Ôi! Lúc Trúc Cơ cần dùng Thác Thược, lúc Luyện Kỉ lại cần Chân Diên. Luyện Kỉ Trúc Cơ, há dễ làm sao!
Đệ lục yếu
Hòa hợp Âm Dương
Đạo tu chân là đạo Kim Đan; đạo Kim Đan là đạo của tạo hóa; đạo của tạo hóa là đạo của Âm Dương.
[Dịch] nói: “Nhất âm nhất dương chi vị đạo - Một Âm một Dương gọi là Đạo”.
Lại nói: “Thiên địa nhân uân, vạn vật hóa thuần, nam nữ cấu tinh, vạn vật hóa sinh - Trời đất mịt mờ vạn vật hóa thuần, nam nữ giao tinh, vạn vật hóa sinh”.
Mà cô Âm bất sinh, độc Dương bất trưởng, nên Âm Dương tương hợp, mới có thể sinh đẻ được. Đạo Kim Đan chỉ là hái giữ Tiên Thiên Chân Nhất Chi Khí. Tiên Thiên Chi Khí, vô hình vô tượng, nhìn thì không thấy, lắng tai nghe cũng chẳng thấy, bắt thì không được, là thứ từ trong hư vô tới.
Thánh nhân lấy cái thực để hình dung cái hư, lấy cái hữu để hình dung cái vô. Thực mà hữu là Chân Âm Chân Dương; hư mà vô là Nhị Bát Sơ Huyền Chi Khí. Sơ Huyền Chi Khí là Tiên Thiên Khí. Khí này, nếu không phải do Âm Dương giao cảm, thì không thể có hình tượng. Nếu muốn tu Kim Đan Đại Đạo, trừ cái Âm Dương này ra, chẳng có thuật gì khác.
Nhưng Âm Dương không phải chỉ có một, nếu như nhận giả là chân, thì phí hoài tâm lực, đã vô ích lại bị tổn hại, nên không thể không tranh biện. Âm Dương của nam nữ là Âm Dương của trần thế; Âm Dương của Tâm Thận là Âm Dương của ảo thân; Âm Dương của nhật nguyệt là Âm Dương của trời đất; Đông Chí, Hạ Chí là Âm Dương của một năm; ngày mùng một và sau ngày rằm là Âm Dương của một tháng; giờ Tý, giờ Ngọ là Âm Dương của một ngày; nhị hậu tứ hậu là Âm Dương của một giờ. Những cái đó đều không phải Âm Dương của Kim Đan.
Âm Dương của Kim Đan, lấy Ngã Gia làm Âm, lấy Tha Gia làm Dương; Ngã là Li, Tha là Khảm; Nhất Âm trong Li là Chân Âm, Nhất Dương trong Khảm là Chân Dương. Thủ Khảm điền Li, là lấy Chân Âm cầu Chân Dương, lấy Chân Dương giúp Chân Âm. Còn nữa, Âm Dương có phân biệt trong ngoài: Âm Dương bên trong, là Âm Dương thuận hành, là việc sau khi sinh thân, là Hậu Thiên, là nhân đạo; Âm Dương bên ngoài, là Âm Dương nghịch vận, là việc trước khi sinh thân, là Tiên Thiên, là Tiên Đạo.
Âm Dương trong ngoài đều không có các tướng nam nữ, phi sắc phi không, tức sắc tức không; phi hữu phi vô, tức hữu tức vô. Nếu chấp vào sắc không hữu vô chi hình, thì không phải là dấu vết thật của Chân Âm Chân Dương.
Đã biết Âm Dương, cần phải điều hòa cho chúng tương đương nhau, không nhiều không ít, không lệch không nghiêng, không nhanh không chậm, chẳng có chẳng không, không gần không xa, không nóng nảy không hèn yếu, hoặc Dương động mà Âm theo, hoặc Âm cảm mà Dương ứng, hoặc dùng Dương trong Âm, hoặc dùng Âm trong Dương, hoặc mượn Âm để làm đủ Dương, hoặc dùng Dương để chế Âm, hoặc dùng Âm Dương bên trong để trợ bên ngoài, hoặc dùng Âm Dương bên ngoài để giúp bên trong, trong ngoài hợp đạo, Kim Đan kết tựu từ trong hư vô, lấy xuống mà uống, thì trường sinh bất tử.
[Tham Đồng] nói: “Đồng loại dị thi công, phi chủng nan vi xảo - Đồng loại thì dễ thi công, khác giống thì khó mà làm cho phù hợp được”.
[Ngộ Chân] nói: “Nội Dược hoàn đồng Ngoại Dược, nội thông ngoại diệc tu thông, đan đầu hòa hợp loại tương đồng, ôn dưỡng lưỡng bàn tác dụng - Nội Dược hoàn cùng Ngoại Dược, trong thông ngoài cũng cần thông, Đan hòa hợp các loại tương đồng, ôn dưỡng có hai loại tác dụng”.
Tổ Tam Phong nói: “Thế gian Âm Dương nam phối nữ, sinh tử sinh tôn đại đại truyền. Thuận vi phàm, nghịch vi tiên, chỉ tại trung gian điên đảo điên - Âm Dương ở đời là nam phối nữ, sinh con sinh cháu nối đời đời. Thuận là phàm, nghịch là Tiên, chỉ nhờ ở trong điên đảo điên”.
Đạo điều hòa Âm Dương toàn là như vậy.
Hòa hợp Âm Dương
Đạo tu chân là đạo Kim Đan; đạo Kim Đan là đạo của tạo hóa; đạo của tạo hóa là đạo của Âm Dương.
[Dịch] nói: “Nhất âm nhất dương chi vị đạo - Một Âm một Dương gọi là Đạo”.
Lại nói: “Thiên địa nhân uân, vạn vật hóa thuần, nam nữ cấu tinh, vạn vật hóa sinh - Trời đất mịt mờ vạn vật hóa thuần, nam nữ giao tinh, vạn vật hóa sinh”.
Mà cô Âm bất sinh, độc Dương bất trưởng, nên Âm Dương tương hợp, mới có thể sinh đẻ được. Đạo Kim Đan chỉ là hái giữ Tiên Thiên Chân Nhất Chi Khí. Tiên Thiên Chi Khí, vô hình vô tượng, nhìn thì không thấy, lắng tai nghe cũng chẳng thấy, bắt thì không được, là thứ từ trong hư vô tới.
Thánh nhân lấy cái thực để hình dung cái hư, lấy cái hữu để hình dung cái vô. Thực mà hữu là Chân Âm Chân Dương; hư mà vô là Nhị Bát Sơ Huyền Chi Khí. Sơ Huyền Chi Khí là Tiên Thiên Khí. Khí này, nếu không phải do Âm Dương giao cảm, thì không thể có hình tượng. Nếu muốn tu Kim Đan Đại Đạo, trừ cái Âm Dương này ra, chẳng có thuật gì khác.
Nhưng Âm Dương không phải chỉ có một, nếu như nhận giả là chân, thì phí hoài tâm lực, đã vô ích lại bị tổn hại, nên không thể không tranh biện. Âm Dương của nam nữ là Âm Dương của trần thế; Âm Dương của Tâm Thận là Âm Dương của ảo thân; Âm Dương của nhật nguyệt là Âm Dương của trời đất; Đông Chí, Hạ Chí là Âm Dương của một năm; ngày mùng một và sau ngày rằm là Âm Dương của một tháng; giờ Tý, giờ Ngọ là Âm Dương của một ngày; nhị hậu tứ hậu là Âm Dương của một giờ. Những cái đó đều không phải Âm Dương của Kim Đan.
Âm Dương của Kim Đan, lấy Ngã Gia làm Âm, lấy Tha Gia làm Dương; Ngã là Li, Tha là Khảm; Nhất Âm trong Li là Chân Âm, Nhất Dương trong Khảm là Chân Dương. Thủ Khảm điền Li, là lấy Chân Âm cầu Chân Dương, lấy Chân Dương giúp Chân Âm. Còn nữa, Âm Dương có phân biệt trong ngoài: Âm Dương bên trong, là Âm Dương thuận hành, là việc sau khi sinh thân, là Hậu Thiên, là nhân đạo; Âm Dương bên ngoài, là Âm Dương nghịch vận, là việc trước khi sinh thân, là Tiên Thiên, là Tiên Đạo.
Âm Dương trong ngoài đều không có các tướng nam nữ, phi sắc phi không, tức sắc tức không; phi hữu phi vô, tức hữu tức vô. Nếu chấp vào sắc không hữu vô chi hình, thì không phải là dấu vết thật của Chân Âm Chân Dương.
Đã biết Âm Dương, cần phải điều hòa cho chúng tương đương nhau, không nhiều không ít, không lệch không nghiêng, không nhanh không chậm, chẳng có chẳng không, không gần không xa, không nóng nảy không hèn yếu, hoặc Dương động mà Âm theo, hoặc Âm cảm mà Dương ứng, hoặc dùng Dương trong Âm, hoặc dùng Âm trong Dương, hoặc mượn Âm để làm đủ Dương, hoặc dùng Dương để chế Âm, hoặc dùng Âm Dương bên trong để trợ bên ngoài, hoặc dùng Âm Dương bên ngoài để giúp bên trong, trong ngoài hợp đạo, Kim Đan kết tựu từ trong hư vô, lấy xuống mà uống, thì trường sinh bất tử.
[Tham Đồng] nói: “Đồng loại dị thi công, phi chủng nan vi xảo - Đồng loại thì dễ thi công, khác giống thì khó mà làm cho phù hợp được”.
[Ngộ Chân] nói: “Nội Dược hoàn đồng Ngoại Dược, nội thông ngoại diệc tu thông, đan đầu hòa hợp loại tương đồng, ôn dưỡng lưỡng bàn tác dụng - Nội Dược hoàn cùng Ngoại Dược, trong thông ngoài cũng cần thông, Đan hòa hợp các loại tương đồng, ôn dưỡng có hai loại tác dụng”.
Tổ Tam Phong nói: “Thế gian Âm Dương nam phối nữ, sinh tử sinh tôn đại đại truyền. Thuận vi phàm, nghịch vi tiên, chỉ tại trung gian điên đảo điên - Âm Dương ở đời là nam phối nữ, sinh con sinh cháu nối đời đời. Thuận là phàm, nghịch là Tiên, chỉ nhờ ở trong điên đảo điên”.
Đạo điều hòa Âm Dương toàn là như vậy.
Đệ thất yếu
Thẩm minh Hỏa Hậu
Cổ kinh nói: “Thánh nhân truyền Dược bất truyền Hỏa, hỏa hậu tòng lai thiểu nhân tri - Thánh nhân truyền Dược không truyền Hỏa, xưa nay hỏa hậu ít người hay”.
Tức là Dược vật thì dễ biết, mà Hỏa Hậu là cực khó. Vì Dược vật tuy khó tìm, nhưng nếu gặp minh sư chỉ rõ, kiến giải chính xác thấu triệt, hiện tại lấy được ngay, lúc khác chẳng cần cầu, vì thế mà dễ biết.
Còn đến Hỏa Hậu, có Văn đun, có Vũ luyện, có hạ thủ, có dừng nghỉ, có trong ngoài, có trước sau, có thời khắc, có cân lượng, có nhanh chậm, có chỉ túc, một bước lại có một bước Hỏa Hậu, bước nào cũng có Hỏa Hậu của bước đó, biến hóa đa đoan, tùy thời mà thi hành, mới có thể đúng được. Nếu sai một li là đi ngàn dặm. Vì thế mà cực khó.
Thế nào là Hỏa? Là Thần Công nung luyện. Thế nào là Hậu? Là thời khắc vận dụng vậy. Thời khắc vận dụng ở lúc Hồng Mông sắp phân, mà Âm Dương còn chưa phân; Thần Công nung luyện là trong lúc thiên nhân hợp phát, hữu vô chẳng lập. Còn có Ngoại Hỏa Hậu, Nội Hỏa Hậu. Ngoại Hỏa Hậu là gom tụ Ngũ Hành, hòa hợp Tứ Tượng; Nội Hỏa Hậu là Mộc Dục ôn dưỡng, phòng nguy lự hiểm. Tuy Nội Ngoại Nhị Dược tương đồng, mà vận dụng Hỏa Hậu lại rất khác nhau, chẳng gặp chân sư, sao mà biết được.
Hội tụ Ngũ Hành, hòa hợp Tứ Tượng, là trộm sinh cơ của trời đất, trộm Tổ Khí của Âm Dương, quay Đẩu Bính mà chuyển Thiên Khu, mở Khôn Môn mà đóng Cấn Hộ, cái diệu đó ở lúc sau khi tích Âm thì Nhất Dương Lai Phục. Lúc này cùng thiên địa hợp đức, cùng nhật nguyệt hợp sáng, cùng bốn mùa hợp thứ tự, cùng quỷ thần hợp cát hung, mà nói một năm chỉ có một tháng, một tháng chỉ có một ngày, một ngày chỉ có một giờ là vậy. Chỉ có một giờ này, dễ mất mà khó tìm, dễ lầm mà khó gặp, được nó thì nhập vào con đường sống, mất nó thì nhập vào con đường chết.
Trong một giờ này, Thánh nhân vận động Âm Phù Dương Hỏa, rút Thiên Căn mà khoan Nguyệt Quật, phá hỗn độn mà nhón lấy Thử Châu, quay lại chỗ quan trọng của 72 hậu , đoạt chính khí của 24 tiết. Thủy Hỏa tương tế ở đây, Kim Mộc giao nhau tại đây, Diên Hống trộn nhau ở đây, an thân lập mệnh tại đây, xuất tử nhập sinh tại đây. Nếu qua mất giờ này, thì Âm Dương phân li, cái Chân ẩn tàng, cái Giả chiếm quyền, mà rơi vào Hậu Thiên, không dùng được vậy.
Rồi đến:
- “Khúc Giang ngạn thượng nguyệt hoa oánh - Trên bờ Khúc Giang ánh trăng lóng lánh”, là Hỏa Hậu sinh Dược;
- “Phong tín lai thì mịch bổn tông - Lúc có tin đến thì tìm Bản Tông”, là Hỏa Hậu thái Dược;
- “Thủy sinh nhị dược chánh chân, nhược đãi kì tam bất khả tiến - Thủy sinh nhị, Dược chính chân, nếu để đến tam thì không được tiến”, là Hỏa Hậu già non;
- “Diên ngộ Quý sinh tu cấp thái, Kim phùng vọng viễn bất kham thường - Diên gặp Quý mà sinh thì nhanh chóng hái, Kim phùng vọng viễn không dám nếm”, là Hỏa Hậu nhanh chậm;
- “Hốt kiến hiện long tại điền, tu mãnh phanh nhi cấp luyện; đãn văn hổ khiếu nhập quật, nghi đảo chuyển dĩ nghịch thi - Đột nhiên thấy Hiện Long Tại Điền, cần nấu luyện mạnh mẽ; chỉ nghe Hổ gầm xông vào huyệt, cần đảo chuyển để làm ngược lại”, là dùng Vũ Hỏa Hậu;
- “Mạn thủ dược lô khán hỏa hậu, đãn an thần tức nhậm thiên nhiên - Coi thường việc giữ lò và canh Hỏa Hậu, chỉ an thần tức mặc thiên nhiên”, là dùng Văn Hỏa Hậu;
- “Vị luyện hoàn đan tu cấp luyện, luyện liễu hoàn tu tri chỉ túc - Chưa luyện Hoàn Đan cần mau luyện, luyện xong rồi cần biết chỉ túc”, là Hỏa Hậu ôn dưỡng;
- “Chỉ nhân hỏa lực điều hòa hậu, chủng đắc Hoàng Nha tiệm trường thành - Chỉ vì sức hỏa được điều hòa, mà trồng được Hoàng Nha tự lớn lên”, là Hỏa Hậu của Đan thành;
- “Thác tâm tri, cẩn hộ trì, chiếu khán lô trung hỏa hậu phi - Nhờ tâm trí, cẩn thận hộ trì, chiếu xem trong lô hỏa hậu phi”, là Hỏa Hậu bảo vệ Đan;
Đó đều là Hỏa Hậu của Hoàn Đan. Đến Hỏa Hậu của Đại Đan, lại có diệu dụng riêng.
- “Thụ khí cát, phòng thành hung - Nhận Khí lành, đề phòng hung hiểm lúc thành”, là Hỏa Hậu của kết Thai;
- “Hỗn độn thất nhật tử phục sinh, toàn bằng lữ bạn điều thủy hỏa - Hỗn độn bẩy ngày chết rồi sống lại, toàn nhờ bạn hữu điều hòa Thủy Hỏa”, là Hỏa Hậu củng cố vững chắc thành công;
- “Tống quy Thổ Phủ lao phong cố, thứ nhập Lưu Châu tư phối đương - Đưa về Thổ Phủ giam chắc lại, rồi cho Lưu Châu vào phối hợp”, là Hỏa Hậu dưỡng Thai;
- “Dụng Diên bất đắc dụng phàm Diên, dụng liễu Chân Diên dã khí quyên - Dùng Diên không được dùng Phàm Diên, dùng xong Chân Diên cũng bỏ đi”, là Hỏa Hậu trừu thiêm;
- “Đan táo hà xa hưu khốt khốt, hạc thai quy tức tự miên miên - Lò bếp nấu Đan, Hà Xa ngừng chăm chỉ, thì hạc thai quy tức tự liên miên”, là Hỏa Hậu Mộc Dục;
- “Nhất nhật nội, thập nhị thì, ý sở đáo, giai khả vi - Trong một ngày, mười hai giờ, chỗ ý đến, đều có thể làm”, là Hỏa Hậu phòng nguy;
- “Anh Nhi thị nhất hàm chân khí, thập nguyệt thai hoàn nhập thánh cơ - Anh Nhi là Nhất Hàm Chân Khí, mười tháng thai tròn vào đất Thánh”, là Hỏa Hậu thành Thai;
- “Quần âm bác tẫn đan thành thục, khiêu xuất phàm lung thọ vạn niên - Lọc hết cặn Âm thì Đan chín đủ, thoát khỏi cõi phàm thọ vạn niên”, là Hỏa Hậu thoát Thai.
Đây là Hỏa Hậu từ đầu đến cuối của Đại Đan. Còn có Hỏa Hậu trong ngoài hai tác dụng.
- “Phàm tục dục cầu thiên thượng sự, dụng thì tu yếu thế gian tài - Kẻ phàm tục muốn cầu lên trời, thì cần phải dùng tiền tài thế gian”, là Hỏa Hậu trong Hỏa Hậu hái Dược;
- “Yển Nguyệt Lô trung Ngọc Nhụy sinh, Chu Sa Đỉnh lí Thủy Ngân bình - Ngọc Nhụy sinh trong Yển Nguyệt Lô, Thủy Ngân bình trong Chu Sa Đỉnh”, là Hỏa Hậu trong Hỏa Hậu Kết Đan;
- “Đệ thất nhật dương phục khởi thủ, biệt diệu dụng hỗn hợp bách thần - Ngày thứ bảy Dương bắt đầu phục, có diệu dụng riêng hợp Bách Thần”, là Hỏa Hậu trong Hỏa Hậu Kết Thai;
- “Hữu vô câu bất lập, vật ngã tất quy không - Hữu vô đều không lập, ta vật phải cùng không”, là Hỏa Hậu của Hỏa Hậu Thoát Thai;
Bí mật về Hỏa Hậu của Nội Ngoại Nhị Đan, tất cả là ở đây vậy. Bên trong còn có chỗ cực kì tinh vi ảo diệu, thần nhi minh chi, tồn hồ kì nhân , lâm thời thì biến thông, không thể dùng câu chữ để truyền vậy.
Thẩm minh Hỏa Hậu
Cổ kinh nói: “Thánh nhân truyền Dược bất truyền Hỏa, hỏa hậu tòng lai thiểu nhân tri - Thánh nhân truyền Dược không truyền Hỏa, xưa nay hỏa hậu ít người hay”.
Tức là Dược vật thì dễ biết, mà Hỏa Hậu là cực khó. Vì Dược vật tuy khó tìm, nhưng nếu gặp minh sư chỉ rõ, kiến giải chính xác thấu triệt, hiện tại lấy được ngay, lúc khác chẳng cần cầu, vì thế mà dễ biết.
Còn đến Hỏa Hậu, có Văn đun, có Vũ luyện, có hạ thủ, có dừng nghỉ, có trong ngoài, có trước sau, có thời khắc, có cân lượng, có nhanh chậm, có chỉ túc, một bước lại có một bước Hỏa Hậu, bước nào cũng có Hỏa Hậu của bước đó, biến hóa đa đoan, tùy thời mà thi hành, mới có thể đúng được. Nếu sai một li là đi ngàn dặm. Vì thế mà cực khó.
Thế nào là Hỏa? Là Thần Công nung luyện. Thế nào là Hậu? Là thời khắc vận dụng vậy. Thời khắc vận dụng ở lúc Hồng Mông sắp phân, mà Âm Dương còn chưa phân; Thần Công nung luyện là trong lúc thiên nhân hợp phát, hữu vô chẳng lập. Còn có Ngoại Hỏa Hậu, Nội Hỏa Hậu. Ngoại Hỏa Hậu là gom tụ Ngũ Hành, hòa hợp Tứ Tượng; Nội Hỏa Hậu là Mộc Dục ôn dưỡng, phòng nguy lự hiểm. Tuy Nội Ngoại Nhị Dược tương đồng, mà vận dụng Hỏa Hậu lại rất khác nhau, chẳng gặp chân sư, sao mà biết được.
Hội tụ Ngũ Hành, hòa hợp Tứ Tượng, là trộm sinh cơ của trời đất, trộm Tổ Khí của Âm Dương, quay Đẩu Bính mà chuyển Thiên Khu, mở Khôn Môn mà đóng Cấn Hộ, cái diệu đó ở lúc sau khi tích Âm thì Nhất Dương Lai Phục. Lúc này cùng thiên địa hợp đức, cùng nhật nguyệt hợp sáng, cùng bốn mùa hợp thứ tự, cùng quỷ thần hợp cát hung, mà nói một năm chỉ có một tháng, một tháng chỉ có một ngày, một ngày chỉ có một giờ là vậy. Chỉ có một giờ này, dễ mất mà khó tìm, dễ lầm mà khó gặp, được nó thì nhập vào con đường sống, mất nó thì nhập vào con đường chết.
Trong một giờ này, Thánh nhân vận động Âm Phù Dương Hỏa, rút Thiên Căn mà khoan Nguyệt Quật, phá hỗn độn mà nhón lấy Thử Châu, quay lại chỗ quan trọng của 72 hậu , đoạt chính khí của 24 tiết. Thủy Hỏa tương tế ở đây, Kim Mộc giao nhau tại đây, Diên Hống trộn nhau ở đây, an thân lập mệnh tại đây, xuất tử nhập sinh tại đây. Nếu qua mất giờ này, thì Âm Dương phân li, cái Chân ẩn tàng, cái Giả chiếm quyền, mà rơi vào Hậu Thiên, không dùng được vậy.
Rồi đến:
- “Khúc Giang ngạn thượng nguyệt hoa oánh - Trên bờ Khúc Giang ánh trăng lóng lánh”, là Hỏa Hậu sinh Dược;
- “Phong tín lai thì mịch bổn tông - Lúc có tin đến thì tìm Bản Tông”, là Hỏa Hậu thái Dược;
- “Thủy sinh nhị dược chánh chân, nhược đãi kì tam bất khả tiến - Thủy sinh nhị, Dược chính chân, nếu để đến tam thì không được tiến”, là Hỏa Hậu già non;
- “Diên ngộ Quý sinh tu cấp thái, Kim phùng vọng viễn bất kham thường - Diên gặp Quý mà sinh thì nhanh chóng hái, Kim phùng vọng viễn không dám nếm”, là Hỏa Hậu nhanh chậm;
- “Hốt kiến hiện long tại điền, tu mãnh phanh nhi cấp luyện; đãn văn hổ khiếu nhập quật, nghi đảo chuyển dĩ nghịch thi - Đột nhiên thấy Hiện Long Tại Điền, cần nấu luyện mạnh mẽ; chỉ nghe Hổ gầm xông vào huyệt, cần đảo chuyển để làm ngược lại”, là dùng Vũ Hỏa Hậu;
- “Mạn thủ dược lô khán hỏa hậu, đãn an thần tức nhậm thiên nhiên - Coi thường việc giữ lò và canh Hỏa Hậu, chỉ an thần tức mặc thiên nhiên”, là dùng Văn Hỏa Hậu;
- “Vị luyện hoàn đan tu cấp luyện, luyện liễu hoàn tu tri chỉ túc - Chưa luyện Hoàn Đan cần mau luyện, luyện xong rồi cần biết chỉ túc”, là Hỏa Hậu ôn dưỡng;
- “Chỉ nhân hỏa lực điều hòa hậu, chủng đắc Hoàng Nha tiệm trường thành - Chỉ vì sức hỏa được điều hòa, mà trồng được Hoàng Nha tự lớn lên”, là Hỏa Hậu của Đan thành;
- “Thác tâm tri, cẩn hộ trì, chiếu khán lô trung hỏa hậu phi - Nhờ tâm trí, cẩn thận hộ trì, chiếu xem trong lô hỏa hậu phi”, là Hỏa Hậu bảo vệ Đan;
Đó đều là Hỏa Hậu của Hoàn Đan. Đến Hỏa Hậu của Đại Đan, lại có diệu dụng riêng.
- “Thụ khí cát, phòng thành hung - Nhận Khí lành, đề phòng hung hiểm lúc thành”, là Hỏa Hậu của kết Thai;
- “Hỗn độn thất nhật tử phục sinh, toàn bằng lữ bạn điều thủy hỏa - Hỗn độn bẩy ngày chết rồi sống lại, toàn nhờ bạn hữu điều hòa Thủy Hỏa”, là Hỏa Hậu củng cố vững chắc thành công;
- “Tống quy Thổ Phủ lao phong cố, thứ nhập Lưu Châu tư phối đương - Đưa về Thổ Phủ giam chắc lại, rồi cho Lưu Châu vào phối hợp”, là Hỏa Hậu dưỡng Thai;
- “Dụng Diên bất đắc dụng phàm Diên, dụng liễu Chân Diên dã khí quyên - Dùng Diên không được dùng Phàm Diên, dùng xong Chân Diên cũng bỏ đi”, là Hỏa Hậu trừu thiêm;
- “Đan táo hà xa hưu khốt khốt, hạc thai quy tức tự miên miên - Lò bếp nấu Đan, Hà Xa ngừng chăm chỉ, thì hạc thai quy tức tự liên miên”, là Hỏa Hậu Mộc Dục;
- “Nhất nhật nội, thập nhị thì, ý sở đáo, giai khả vi - Trong một ngày, mười hai giờ, chỗ ý đến, đều có thể làm”, là Hỏa Hậu phòng nguy;
- “Anh Nhi thị nhất hàm chân khí, thập nguyệt thai hoàn nhập thánh cơ - Anh Nhi là Nhất Hàm Chân Khí, mười tháng thai tròn vào đất Thánh”, là Hỏa Hậu thành Thai;
- “Quần âm bác tẫn đan thành thục, khiêu xuất phàm lung thọ vạn niên - Lọc hết cặn Âm thì Đan chín đủ, thoát khỏi cõi phàm thọ vạn niên”, là Hỏa Hậu thoát Thai.
Đây là Hỏa Hậu từ đầu đến cuối của Đại Đan. Còn có Hỏa Hậu trong ngoài hai tác dụng.
- “Phàm tục dục cầu thiên thượng sự, dụng thì tu yếu thế gian tài - Kẻ phàm tục muốn cầu lên trời, thì cần phải dùng tiền tài thế gian”, là Hỏa Hậu trong Hỏa Hậu hái Dược;
- “Yển Nguyệt Lô trung Ngọc Nhụy sinh, Chu Sa Đỉnh lí Thủy Ngân bình - Ngọc Nhụy sinh trong Yển Nguyệt Lô, Thủy Ngân bình trong Chu Sa Đỉnh”, là Hỏa Hậu trong Hỏa Hậu Kết Đan;
- “Đệ thất nhật dương phục khởi thủ, biệt diệu dụng hỗn hợp bách thần - Ngày thứ bảy Dương bắt đầu phục, có diệu dụng riêng hợp Bách Thần”, là Hỏa Hậu trong Hỏa Hậu Kết Thai;
- “Hữu vô câu bất lập, vật ngã tất quy không - Hữu vô đều không lập, ta vật phải cùng không”, là Hỏa Hậu của Hỏa Hậu Thoát Thai;
Bí mật về Hỏa Hậu của Nội Ngoại Nhị Đan, tất cả là ở đây vậy. Bên trong còn có chỗ cực kì tinh vi ảo diệu, thần nhi minh chi, tồn hồ kì nhân , lâm thời thì biến thông, không thể dùng câu chữ để truyền vậy.
Đệ bát yếu
Ngoại Dược liễu Mệnh
[Ngộ chân] nói: “Hưu thi xảo ngụy vi công lực, nhận thủ tha gia bất tử phương - Ngừng bày cái xảo ngụy ra làm công lực, mà hãy nhận ra được phương thuốc bất tử của Tha Gia”.
Duyên Đốc Tử viết: “Tiên Thiên Chi Khí tự hư vô trung lai - Tiên Thiên Chi Khí từ trong hư vô tới”.
Nói Tha Gia, nói Hư Vô, thì biết là không phải vật của tự mình sinh ra. Nói đến chỗ này, chư thiên và người đều phải kinh nghi vậy.
Trời dựa vào Âm Dương Ngũ Hành mà hóa sinh vạn vật, Khí là để thành hình, người được chính khí trời cho, mà là vạn vật chi linh. Có Khí này là có cái Lí này. Khí là Mệnh, Lí là Tính, vậy Tính Mệnh tức là do trời trao cho. Bắt đầu thì trời trao cho, kết thúc thì trời đoạt lấy, đây là cái thế tất phải có. Nếu dựa vào vật Hậu Thiên ảo thân mà tranh quyền với trời, tóm lại chỉ ở trong bàn tay của tạo hóa, sao có thể thoát khỏi tạo hóa?
Nếu không có đạo Kim Dịch Hoàn Đan, mà vọng tưởng bảo toàn Tính Mệnh, thì tuyệt không có lí này. Đạo Kim Dịch Hoàn Đan, là Tiên Thiên Chi Đạo. Tiên Thiên Chi Đạo thì bao la trời đất, vận động Âm Dương, là cơ mật nằm ngoài trời đất, nên có thể hết sinh tử mà tránh luân hồi, xuất phàm trần mà nhập Thánh Cơ. Nhưng cơ mật này cách xa ngàn dặm, mà lại gần trong tấc gang, đáng tiếc là thế nhân không chịu nghiêm túc chăm chỉ, nên nó ngày càng xa cách, tuyệt không quay lại, thật là tự đưa Tính Mệnh đi.
Nếu có chí sĩ, nghiên cứu đến cùng thực lí, đột nhiên hiểu rõ chỗ hồ nghi, rõ ràng buông bỏ, thẳng lên Bỉ Ngạn, thì Kim Đan đỏ rực một ngày là thành, chẳng phải đợi ba năm chín năm làm gì. Nhưng Đan thành rất dễ, mà tu luyện rất khó, giả sử không có đạo hư thực tương ứng, đạo Âm Dương biến hóa, đạo dùng thuật kéo dài Mệnh, thì Kim Đan không kết. Đạo dùng thuật kéo dài Mệnh, là đạo đoạt quyền của thiên địa tạo hóa, trộm cái Cơ của Âm Dương tiêu tức, chuyển sinh sát, lay Đẩu Bính, Tiên Thiên mà trời không trái.
[Âm phù kinh] nói: “Kì đạo cơ dã, thiên hạ mạc năng tri, mạc năng kiến - Cái cách trộm cơ quan này, thiên hạ chẳng ai hay, chẳng ai thấy”.
[Ngộ chân] nói: “Thủy vu hữu tác nhân nan kiến, cập chí vô vi chúng thủy tri. Đãn kiến vô vi vi yếu diệu, khởi tri hữu tác thị căn cơ - Bắt đầu ở có động tác thì người khó thấy, đến lúc vô vi họ mới hay. Chỉ thấy vô vi là yếu diệu, há hay có động tác là căn cơ”.
Vì người ta từ sau khi Tiên Thiên thất tán, Chân Dương đã hao tổn, hình hài tuy là đàn ông, mà bên trong đều là Âm, nếu chấp vào tự mình mà tu, chẳng qua là Thế Thóa Tân Tinh Khí Huyết Dịch , chẳng qua là Nhãn Nhĩ Tị Thiệt Thân Ý, chẳng qua là thất tình lục dục, ngũ uẩn bát thức, Tam Bành bách huyệt, là dùng Âm giúp Âm, thì Mệnh do đâu mà tiếp, Đan do đâu mà kết?
Nên [Tham đồng] nói: “Tẫn kê tự noãn, kì sồ bất toàn - Gà mái tự đẻ trứng, thì không ấp thành gà con được”, là chứng cớ vậy.
Cái Đan Kinh gọi là Ngoại Dược, là vì Ngã Gia Chân Dương thất tán ra ngoài, không thuộc về ta, ở tại Tha Gia, nên lấy từ Ngoại để đặt tên. Kẻ mê không biết, hiểu lầm chữ Tha , chữ Ngoại , hoặc lầm thành Ngự Nữ Khuê Đan, hoặc nhầm thành Ngũ Kim Bát Thạch, hoặc nhầm thành thiên địa nhật nguyệt, hoặc nhầm thành mây trời cây cỏ, cho đến bao nhiêu là vật hữu hình.
Thật không biết rằng Đại Dược chân chính, phi sắc phi không, phi hữu phi vô, là cái Khí ban đầu lúc Hồng Mông chưa tách, là cái cốt lõi ban đầu khi trời đất chưa phân, thuận thì sinh người sinh vật, nghịch thì thành Tiên thành Phật. Thánh nhân dùng phép truy nhiếp, trong một giờ kết thành một hạt Thử Châu, tên gọi Dương Đan, cũng gọi là Hoàn Đan, cũng gọi là Kim Đan, cũng gọi là Chân Diên, dùng Chân Diên này điểm hóa Âm Hống của ta, như mèo bắt chuột, chớp mắt làm khô Hống , kết thành Thánh Thai, vì thế có tên là Ngoại Dược. Thử bày tỏ tỉ mỉ xem:
- “Dược xuất tây nam thị Khôn vị, dục tầm Khôn vị khởi li nhân - Dược ra tại vị trí Khôn ở Tây Nam, muốn tìm vị trí Khôn há lại rời người” là Ngoại Dược;
- “Sơ tam nhật, Chấn xuất Canh, Khúc Giang ngạn thượng nguyệt hoa oánh - Ngày mùng ba, Chấn ở phương Canh, trên bờ Khúc Giang ánh trăng óng ánh” là Ngoại Dược;
- “Kim Đỉnh dục lưu Chu lí Hống, Ngọc Trì tiên hạ Thủy trung Ngân - Trong Kim Đỉnh muốn giữ Hống trong Chu, đầu tiên trong Ngọc Trì phải hạ Ngân trong Thủy” là Ngoại Dược;
- “Thủ tương Khảm vị tâm trung thật, điểm hóa Li cung phúc nội Âm - Lấy một hào Dương trong quẻ Khảm, điểm hóa hào Âm giữa quẻ Li” là Ngoại Dược;
- “Yển Nguyệt Lô trung Ngọc Nhụy sinh, Chu Sa Đỉnh nội Thủy Ngân bình - Ngọc Nhụy sinh trong Yển Nguyệt Lô, Thủy Ngân bình trong Chu Sa Đỉnh” là Ngoại Dược;
- “Khảm Li chi khí hòa hợp, Hoàng Nha tự sinh - Khí của Khảm Li hòa hợp thì Hoàng Nha tự sinh”, là Ngoại Dược.
Nhưng Dược vốn ở bên ngoài, làm sao mà hướng được vào trong mà sinh? Dược thuộc về chỗ khác, làm sao được là của ta? Kinh nói: “Ngũ Hành thuận sinh, pháp giới hỏa khanh; Ngũ Hành điên đảo, đại địa thất bảo - Ngũ Hành mà thuận sinh thì pháp giới là vực lửa, Ngũ Hành mà điên đảo thì khắp mặt đất là Thất Bảo”.
Mộc vốn sinh Hỏa, nay Hỏa phản sinh Mộc; Kim vốn sinh Thủy, nay Thủy phản sinh Kim; trong Kim Mộc Thủy Hỏa ẩn tàng Mậu Kỉ Nhị Thổ, hòa Tứ Tượng mà phối Ngũ Hành, vận dụng Nhất Khí, phục thành Thái Cực. Hỏa Công đủ ngày, luyện thành một hạt Chí Dương Đan, lấy mà nuốt, thì trường sinh bất tử, cùng trời đất đồng xuân, cùng nhật nguyệt tranh sáng, mà nói “Nhất lạp Kim Đan thôn nhập phúc, thủy tri ngã mệnh bất do thiên giả - Một hạt Kim Đan nuốt vào bụng, mới hay sống chết chẳng do trời” là vậy.
Ôi! Vạn lạng hoàng kim mua không được, trước Thập Tự Nhai tiễn kẻ chí nhân. Kim Đan Đại Đạo, vạn kiếp nhất truyền, chí tôn chí quý, kẻ được nó lập tức lên đất thánh, không đợi đầu thai kiếp sau, trước mắt lấy được thần thông của Phật, người thích gì mà không tích đức tu đạo vậy?
Đệ cửu yếu
Nội Dược liễu Tính
[Đạo đức kinh] nói: “Hữu dục dĩ quan kì khiếu, vô dục dĩ quan kì diệu - Hữu dục để xem cái Khiếu đó, vô dục để xem điều kì diệu”. Hai câu này là từ đầu đến cuối của Kim Đan Đại Đạo, là yếu quyết của người học xưa nay.
Không được Ngoại Dược, thì không thể ra khỏi Âm Dương; không thành Nội Dược, thì không thể hình thần câu diệu. Bậc Thượng Đức thì tu Nội Dược, mà Ngoại Dược liền toàn vẹn; kẻ Hạ Đức tu Ngoại Dược, mà Nội Dược mới thành được. Ngoại Dược là tiệm pháp, Nội Dược là đốn pháp¬. Ngoại Dược là để siêu phàm, Nội Dược là để nhập thánh.
“Hữu dục quan khiếu” là Ngoại Dược, trộm đoạt công phu của tạo hóa, là việc của Ảo Thân; “Vô dục quan diệu” là Nội Dược, là cái học minh tâm kiến tính, là việc của Pháp Thân. Nếu Ngoại Dược đã đắc, mà không tu Nội Dược, là như Lữ Tổ nói “Thọ đồng thiên địa nhất ngu phu¬ - Một kẻ ngu thọ cùng trời đất” vậy. Huống gì cái mà Đại Đan khó được chính là Ngoại Dược, Ngoại Dược đến tay, tức là Nội Dược, thì Thánh Thai có hình tượng, công phu Âm Phù, chính nhờ như vậy.
[Tham đồng] nói: “Nhĩ mục khẩu tam bảo, bế tắc vật phát thông, chân nhân tiềm thâm uyên, phù du thủ quy trung - Tại mắt miệng tam bảo, đóng lại không thông ra ngoài, chân nhân ẩn thân nơi vực sâu, bồng bềnh giữ Quy Trung” mà nói “Vô dục quan diệu” là vậy. “Vô dục quan diệu” là đạo vô vi, nhưng vô vi chẳng phải là cỏ khô tro lạnh, tuyệt không nói đến một việc, mà bên trong có công phu Triêu Truân Mộ Mông , công phu rút Diên thêm Hống, công phu phòng nguy lự hiểm, công phu củng cố vững chắc Thánh Thai.
Vì thế dung hòa Ngũ Hành mà hóa Âm Dương, cho đến khi đạo và pháp đều quên, hữu vô chẳng lập, mười tháng sương bay, thân ngoại hữu thân, cực vãng tri lai , quay về nơi Chân Như Đại Giác, là Phật Tổ nói Chánh Pháp Nhãn Tàng, Niết Bàn Diệu Tâm, Đại Đạo Tối Thượng Nhất Thừa.
Nếu chẳng phải là sau khi liễu Mệnh mà vội thì hành công phu này, thì căn bản không vững, hư mà không thực, chưa từng được nung luyện trong Đại Tạo Lô, dù cho liễu được Chân Như Tính, nếu có một chút rò rỉ, thì khó tránh khỏi cái họa phao thân nhập thân . Hậu nhân không biết cái ý của cổ nhân khi lập ngôn, phần nhiều coi cái Lí về Tính là không đáng quý trọng, thử hỏi người học ở thế gian, có bao kẻ biết rõ về Niết Bàn Chi Tâm đây? Có bao kẻ thấy rõ Chân Như Tính đây? Niết Bàn Tâm, Chân Như Tính, trong văn vắt, đỏ rừng rực, tròn trĩnh, sáng lấp lánh, thông thiên triệt địa, không thể xem nó là Hậu Thiên nhân tâm huyết tính.
Cổ nhân cũng có người liễu Tính mà không liễu Mệnh, gọi là “vạn kiếp Âm Linh khó nhập thánh”, là riêng vì kẻ chưa tu Mệnh, chỉ tu Tính mà nói ra. Nếu đã liễu Mệnh, sao lại không tu Tính? Nếu không tu Tính, thì cố chấp khi ứng vật, uổng có gia tài mà không có chủ. Nếu không tu Tính, tuy Ảo Thân đã thoát, mà Pháp Thân khó thoát. Nếu không tu Tính, thì chỉ có thể trường sinh, mà không thể vô sinh. Nếu không tu Tính, dù có thể liễu được lúc mới sinh thân, mà khó hoàn thiện được lúc trước khi sinh thân. Công phu Nội Dược liễu Tính, quan hệ rất lớn, sự nghiệp vô cùng, đều cần kết quả ở chỗ này, sao được coi thường Tính?
Ta mong người thành đạo, trước khi tu Tính, hãy nhanh chóng tu Mệnh; sau khi liễu Mệnh, cần nhanh chóng liễu Tính. Âm Dương cùng sử dụng, Tính Mệnh Song Tu, từ hữu vi mà nhập vô vi, đến khi hữu vô chẳng lập, đả phá hư không, nhập vào nơi Bất Sinh Bất Diệt, thì việc Tu Chân có thể xong vậy.
Ngoại Dược liễu Mệnh
[Ngộ chân] nói: “Hưu thi xảo ngụy vi công lực, nhận thủ tha gia bất tử phương - Ngừng bày cái xảo ngụy ra làm công lực, mà hãy nhận ra được phương thuốc bất tử của Tha Gia”.
Duyên Đốc Tử viết: “Tiên Thiên Chi Khí tự hư vô trung lai - Tiên Thiên Chi Khí từ trong hư vô tới”.
Nói Tha Gia, nói Hư Vô, thì biết là không phải vật của tự mình sinh ra. Nói đến chỗ này, chư thiên và người đều phải kinh nghi vậy.
Trời dựa vào Âm Dương Ngũ Hành mà hóa sinh vạn vật, Khí là để thành hình, người được chính khí trời cho, mà là vạn vật chi linh. Có Khí này là có cái Lí này. Khí là Mệnh, Lí là Tính, vậy Tính Mệnh tức là do trời trao cho. Bắt đầu thì trời trao cho, kết thúc thì trời đoạt lấy, đây là cái thế tất phải có. Nếu dựa vào vật Hậu Thiên ảo thân mà tranh quyền với trời, tóm lại chỉ ở trong bàn tay của tạo hóa, sao có thể thoát khỏi tạo hóa?
Nếu không có đạo Kim Dịch Hoàn Đan, mà vọng tưởng bảo toàn Tính Mệnh, thì tuyệt không có lí này. Đạo Kim Dịch Hoàn Đan, là Tiên Thiên Chi Đạo. Tiên Thiên Chi Đạo thì bao la trời đất, vận động Âm Dương, là cơ mật nằm ngoài trời đất, nên có thể hết sinh tử mà tránh luân hồi, xuất phàm trần mà nhập Thánh Cơ. Nhưng cơ mật này cách xa ngàn dặm, mà lại gần trong tấc gang, đáng tiếc là thế nhân không chịu nghiêm túc chăm chỉ, nên nó ngày càng xa cách, tuyệt không quay lại, thật là tự đưa Tính Mệnh đi.
Nếu có chí sĩ, nghiên cứu đến cùng thực lí, đột nhiên hiểu rõ chỗ hồ nghi, rõ ràng buông bỏ, thẳng lên Bỉ Ngạn, thì Kim Đan đỏ rực một ngày là thành, chẳng phải đợi ba năm chín năm làm gì. Nhưng Đan thành rất dễ, mà tu luyện rất khó, giả sử không có đạo hư thực tương ứng, đạo Âm Dương biến hóa, đạo dùng thuật kéo dài Mệnh, thì Kim Đan không kết. Đạo dùng thuật kéo dài Mệnh, là đạo đoạt quyền của thiên địa tạo hóa, trộm cái Cơ của Âm Dương tiêu tức, chuyển sinh sát, lay Đẩu Bính, Tiên Thiên mà trời không trái.
[Âm phù kinh] nói: “Kì đạo cơ dã, thiên hạ mạc năng tri, mạc năng kiến - Cái cách trộm cơ quan này, thiên hạ chẳng ai hay, chẳng ai thấy”.
[Ngộ chân] nói: “Thủy vu hữu tác nhân nan kiến, cập chí vô vi chúng thủy tri. Đãn kiến vô vi vi yếu diệu, khởi tri hữu tác thị căn cơ - Bắt đầu ở có động tác thì người khó thấy, đến lúc vô vi họ mới hay. Chỉ thấy vô vi là yếu diệu, há hay có động tác là căn cơ”.
Vì người ta từ sau khi Tiên Thiên thất tán, Chân Dương đã hao tổn, hình hài tuy là đàn ông, mà bên trong đều là Âm, nếu chấp vào tự mình mà tu, chẳng qua là Thế Thóa Tân Tinh Khí Huyết Dịch , chẳng qua là Nhãn Nhĩ Tị Thiệt Thân Ý, chẳng qua là thất tình lục dục, ngũ uẩn bát thức, Tam Bành bách huyệt, là dùng Âm giúp Âm, thì Mệnh do đâu mà tiếp, Đan do đâu mà kết?
Nên [Tham đồng] nói: “Tẫn kê tự noãn, kì sồ bất toàn - Gà mái tự đẻ trứng, thì không ấp thành gà con được”, là chứng cớ vậy.
Cái Đan Kinh gọi là Ngoại Dược, là vì Ngã Gia Chân Dương thất tán ra ngoài, không thuộc về ta, ở tại Tha Gia, nên lấy từ Ngoại để đặt tên. Kẻ mê không biết, hiểu lầm chữ Tha , chữ Ngoại , hoặc lầm thành Ngự Nữ Khuê Đan, hoặc nhầm thành Ngũ Kim Bát Thạch, hoặc nhầm thành thiên địa nhật nguyệt, hoặc nhầm thành mây trời cây cỏ, cho đến bao nhiêu là vật hữu hình.
Thật không biết rằng Đại Dược chân chính, phi sắc phi không, phi hữu phi vô, là cái Khí ban đầu lúc Hồng Mông chưa tách, là cái cốt lõi ban đầu khi trời đất chưa phân, thuận thì sinh người sinh vật, nghịch thì thành Tiên thành Phật. Thánh nhân dùng phép truy nhiếp, trong một giờ kết thành một hạt Thử Châu, tên gọi Dương Đan, cũng gọi là Hoàn Đan, cũng gọi là Kim Đan, cũng gọi là Chân Diên, dùng Chân Diên này điểm hóa Âm Hống của ta, như mèo bắt chuột, chớp mắt làm khô Hống , kết thành Thánh Thai, vì thế có tên là Ngoại Dược. Thử bày tỏ tỉ mỉ xem:
- “Dược xuất tây nam thị Khôn vị, dục tầm Khôn vị khởi li nhân - Dược ra tại vị trí Khôn ở Tây Nam, muốn tìm vị trí Khôn há lại rời người” là Ngoại Dược;
- “Sơ tam nhật, Chấn xuất Canh, Khúc Giang ngạn thượng nguyệt hoa oánh - Ngày mùng ba, Chấn ở phương Canh, trên bờ Khúc Giang ánh trăng óng ánh” là Ngoại Dược;
- “Kim Đỉnh dục lưu Chu lí Hống, Ngọc Trì tiên hạ Thủy trung Ngân - Trong Kim Đỉnh muốn giữ Hống trong Chu, đầu tiên trong Ngọc Trì phải hạ Ngân trong Thủy” là Ngoại Dược;
- “Thủ tương Khảm vị tâm trung thật, điểm hóa Li cung phúc nội Âm - Lấy một hào Dương trong quẻ Khảm, điểm hóa hào Âm giữa quẻ Li” là Ngoại Dược;
- “Yển Nguyệt Lô trung Ngọc Nhụy sinh, Chu Sa Đỉnh nội Thủy Ngân bình - Ngọc Nhụy sinh trong Yển Nguyệt Lô, Thủy Ngân bình trong Chu Sa Đỉnh” là Ngoại Dược;
- “Khảm Li chi khí hòa hợp, Hoàng Nha tự sinh - Khí của Khảm Li hòa hợp thì Hoàng Nha tự sinh”, là Ngoại Dược.
Nhưng Dược vốn ở bên ngoài, làm sao mà hướng được vào trong mà sinh? Dược thuộc về chỗ khác, làm sao được là của ta? Kinh nói: “Ngũ Hành thuận sinh, pháp giới hỏa khanh; Ngũ Hành điên đảo, đại địa thất bảo - Ngũ Hành mà thuận sinh thì pháp giới là vực lửa, Ngũ Hành mà điên đảo thì khắp mặt đất là Thất Bảo”.
Mộc vốn sinh Hỏa, nay Hỏa phản sinh Mộc; Kim vốn sinh Thủy, nay Thủy phản sinh Kim; trong Kim Mộc Thủy Hỏa ẩn tàng Mậu Kỉ Nhị Thổ, hòa Tứ Tượng mà phối Ngũ Hành, vận dụng Nhất Khí, phục thành Thái Cực. Hỏa Công đủ ngày, luyện thành một hạt Chí Dương Đan, lấy mà nuốt, thì trường sinh bất tử, cùng trời đất đồng xuân, cùng nhật nguyệt tranh sáng, mà nói “Nhất lạp Kim Đan thôn nhập phúc, thủy tri ngã mệnh bất do thiên giả - Một hạt Kim Đan nuốt vào bụng, mới hay sống chết chẳng do trời” là vậy.
Ôi! Vạn lạng hoàng kim mua không được, trước Thập Tự Nhai tiễn kẻ chí nhân. Kim Đan Đại Đạo, vạn kiếp nhất truyền, chí tôn chí quý, kẻ được nó lập tức lên đất thánh, không đợi đầu thai kiếp sau, trước mắt lấy được thần thông của Phật, người thích gì mà không tích đức tu đạo vậy?
Đệ cửu yếu
Nội Dược liễu Tính
[Đạo đức kinh] nói: “Hữu dục dĩ quan kì khiếu, vô dục dĩ quan kì diệu - Hữu dục để xem cái Khiếu đó, vô dục để xem điều kì diệu”. Hai câu này là từ đầu đến cuối của Kim Đan Đại Đạo, là yếu quyết của người học xưa nay.
Không được Ngoại Dược, thì không thể ra khỏi Âm Dương; không thành Nội Dược, thì không thể hình thần câu diệu. Bậc Thượng Đức thì tu Nội Dược, mà Ngoại Dược liền toàn vẹn; kẻ Hạ Đức tu Ngoại Dược, mà Nội Dược mới thành được. Ngoại Dược là tiệm pháp, Nội Dược là đốn pháp¬. Ngoại Dược là để siêu phàm, Nội Dược là để nhập thánh.
“Hữu dục quan khiếu” là Ngoại Dược, trộm đoạt công phu của tạo hóa, là việc của Ảo Thân; “Vô dục quan diệu” là Nội Dược, là cái học minh tâm kiến tính, là việc của Pháp Thân. Nếu Ngoại Dược đã đắc, mà không tu Nội Dược, là như Lữ Tổ nói “Thọ đồng thiên địa nhất ngu phu¬ - Một kẻ ngu thọ cùng trời đất” vậy. Huống gì cái mà Đại Đan khó được chính là Ngoại Dược, Ngoại Dược đến tay, tức là Nội Dược, thì Thánh Thai có hình tượng, công phu Âm Phù, chính nhờ như vậy.
[Tham đồng] nói: “Nhĩ mục khẩu tam bảo, bế tắc vật phát thông, chân nhân tiềm thâm uyên, phù du thủ quy trung - Tại mắt miệng tam bảo, đóng lại không thông ra ngoài, chân nhân ẩn thân nơi vực sâu, bồng bềnh giữ Quy Trung” mà nói “Vô dục quan diệu” là vậy. “Vô dục quan diệu” là đạo vô vi, nhưng vô vi chẳng phải là cỏ khô tro lạnh, tuyệt không nói đến một việc, mà bên trong có công phu Triêu Truân Mộ Mông , công phu rút Diên thêm Hống, công phu phòng nguy lự hiểm, công phu củng cố vững chắc Thánh Thai.
Vì thế dung hòa Ngũ Hành mà hóa Âm Dương, cho đến khi đạo và pháp đều quên, hữu vô chẳng lập, mười tháng sương bay, thân ngoại hữu thân, cực vãng tri lai , quay về nơi Chân Như Đại Giác, là Phật Tổ nói Chánh Pháp Nhãn Tàng, Niết Bàn Diệu Tâm, Đại Đạo Tối Thượng Nhất Thừa.
Nếu chẳng phải là sau khi liễu Mệnh mà vội thì hành công phu này, thì căn bản không vững, hư mà không thực, chưa từng được nung luyện trong Đại Tạo Lô, dù cho liễu được Chân Như Tính, nếu có một chút rò rỉ, thì khó tránh khỏi cái họa phao thân nhập thân . Hậu nhân không biết cái ý của cổ nhân khi lập ngôn, phần nhiều coi cái Lí về Tính là không đáng quý trọng, thử hỏi người học ở thế gian, có bao kẻ biết rõ về Niết Bàn Chi Tâm đây? Có bao kẻ thấy rõ Chân Như Tính đây? Niết Bàn Tâm, Chân Như Tính, trong văn vắt, đỏ rừng rực, tròn trĩnh, sáng lấp lánh, thông thiên triệt địa, không thể xem nó là Hậu Thiên nhân tâm huyết tính.
Cổ nhân cũng có người liễu Tính mà không liễu Mệnh, gọi là “vạn kiếp Âm Linh khó nhập thánh”, là riêng vì kẻ chưa tu Mệnh, chỉ tu Tính mà nói ra. Nếu đã liễu Mệnh, sao lại không tu Tính? Nếu không tu Tính, thì cố chấp khi ứng vật, uổng có gia tài mà không có chủ. Nếu không tu Tính, tuy Ảo Thân đã thoát, mà Pháp Thân khó thoát. Nếu không tu Tính, thì chỉ có thể trường sinh, mà không thể vô sinh. Nếu không tu Tính, dù có thể liễu được lúc mới sinh thân, mà khó hoàn thiện được lúc trước khi sinh thân. Công phu Nội Dược liễu Tính, quan hệ rất lớn, sự nghiệp vô cùng, đều cần kết quả ở chỗ này, sao được coi thường Tính?
Ta mong người thành đạo, trước khi tu Tính, hãy nhanh chóng tu Mệnh; sau khi liễu Mệnh, cần nhanh chóng liễu Tính. Âm Dương cùng sử dụng, Tính Mệnh Song Tu, từ hữu vi mà nhập vô vi, đến khi hữu vô chẳng lập, đả phá hư không, nhập vào nơi Bất Sinh Bất Diệt, thì việc Tu Chân có thể xong vậy.
Thần thất bát pháp
Thần thất bát pháp tự
Cổ tiên nói: “Đạo vốn vô vi mà pháp thì hữu vi. Như vậy đạo là thể, pháp là dụng, thể dụng đều đủ, tính mệnh song tu, tuần tự tiệm tiến, theo đó chưa từng có ai không thể nhập vào cõi huyền diệu của thánh hiền. Ta từ sau khi gặp được Khám Cốc, Tiên Lưu, biết được tính mệnh cần dùng pháp để tu, âm dương cần dùng pháp điều hòa, tạo hóa cần dùng pháp đọat ấy, tứ tượng cần dùng pháp để hợp lại, ngữ hàh cần dùng pháp để thâu tóm, hữu vi vô vi mỗi cái đều có phép tắc riêng, sai một ly đi một dặm. Đáng buồn, người tu chân trên đời không biết chính tà, đi vào bàng môn, lao đao suốt đời đến già vẫn không thành. Ta không dám chỉ biết lợi cho mình, đem hết những điều nghiệm được trong suốt cuộc đời viết thành Thần thất bát pháp (tám phép tu thần thất) để đúc kết những hiểu biết. Tuy lời tầm thường nhưng lý tinh vi, đến như vật liệu liệu lớn nhỏ, thước tấc dài ngắn, khuôn phép chừng mực,không gì không đủ. Đặc biệt cho rằng tu đạo nhằm tu luyện thần thất, thần thất hòan chỉnh thì đại đạo thành tựu, vĩnh viễn không thẫm lậu, thóat khỏi tai họa, nhập vào cảnh giói tự tại an nhiên. Nếu có người hỉeu biết, từ trong sách này tìm được sự dũng mãnh tinh tiến, hái lấy lọai dược liệu chân thật, theo pháp mà tu tạo, hòan thành thần thất, an thân lập mệnh, làm người nhàn vô sư trong vũ trụ, thì đó chính là mong ước của ta.
Tết Trung thu năm mậu ngọ, năm thứ ba niên hiêu Gia Khánh nhà Thanh, người quê mùa tự viết nơi đình Tẩy Tâm núi Thê Vân
Cương
Pháp cương là rường cột của thần thất. Rường cột là vật kiên cường bất khuất, không thiên không lệch, đoan chính ngay thẳng, không hề dao động, trách nhiệm nặng nề nhất, lớn nhất, thần thất lềch hay chính đèu do ở nó. Cho nen rường cột vững vàng kiên cố, thần thất vĩnh viễn thường tồn. Khổng tử nói: Ta chưa từng thấy người kiên cường (cương). Có người nói: Thân Trành đó. Khổng tử nói: Trành thì tham vọng (dục), sao có thể gọi là kiên cường (cương)? Cho nên dục là vật cản trở đạo, cương là gốc của việc hành đạo. Cương là mạnh mẽ, quả đóan, cứng rắn, sắc bén, lợi hại. Giỏi dùng cương thì phú quý không làm mình sa đọa, bần tiện không khiến mình thay đổi, vũ lực không khuất phục được. Cũng như thầy Mạnh vậy. Xưa thầy Mạnh giỏi dưỡng khí hạo nhiên, 40 tuổi không còn động tâm, là người có đức cương. Cũng như thầy Trọng, xưa thầy Trọng nếu có người bảo cho điều sai liền vui mừng, thấy sai liền sửa, chỉ sợ không nghe được. Sau gặp nạn ở nước Vệ, đến chết thầy vẫn giữ mũ ngay ngắn, là người có đức cương. Kế đến là thầy Quan, Nhạc Vũ Mục, Lôi Vạn Xuân, Thiết Huỳen, Phương Hiếu Nhụ, lòng trung không bao giờ thây đổi, gặp gian nan không khuất phục,không người nào không có khí cương dồi dào, dù chết hay sống thì cái chết đi chỉ là thân ảo và chính khí mãi bất tử. Người tu đạo nếu có thể xem tính mệnh là đại sự, nhìn thấu duyên trần, một nhát cắt đứt, vạn hữu giai không, thóat ly thể tục, không lưu tâm ở cái ăn cái mặc, không khấy động trong hố lửa, mặc trăm vạn tà ma chướng ngại, cứ thuận tự nhiên, sinh tử còn mất, mặc cho trời quyết, xây dựng phẩm hạnh của bậc đại trượng phu, giữ lấy ý chí của đấng anh hùng. Có được cương khí này, có thủy có chung, càng lâu càng mạnh thì tiến đi đều lợi. Xưa, Bão Phác tử nghe đạo 20 năm, trong nhà không tích lũy của cải, dù chưa thể thành đạo nhưng ý chí càng kiên cường. Thuần Dương sau khi gặp Chính Dương, trãi qua 10 lần thử thách, không chút thay đổi. Khâu Tổ khi không đẩy lui được dục vọng, ba lần tịnh thân, không diệt được ma ngủ nên ở lại Bàn Khê 6 năm. Tam Phong vì đạo quên thân, áo rách giầy thủng, càng già càng mạnh mẽ, 70 tuổi thì gặp thầy. Những vị nói trên đều đi ra từ nơi gian khổ, đến một ngày khổ tận cam lai, nhân duyên tới, đại đạo liền thành. Bởi cuowng khí không có nên tứ đại yếu ớt, tòan thân buông xuôi, sợ sệt không tiến lên, nhuệ khí tiêu tan, lục tặc làm càn, tam thi thao túng, chủ ý bất định, đầy hồ nghi, không quả quyết vừa sợ đói vừa sợ rét, lại sợ tu không thành, để lỡ hiện tại, lại sợ ma quỷ chướng ngại tấn công, khổ sở khó chịu nổi, lại lo duyên pháp không đến, hành đạo không thuận lợi.Ôi! người không có hằng tâm không thể lầm thầy thuốc thầy bói, huống hồ là đại sự về tính mệnh? Nên người tu đạo muốn tu thần thất, đầu tiên xây dựng cương khí, muốn lập cương khí đầu tiên bỏ dục vọng, dục vọng đã đi thì cương được lập nên, rường cột thần thất vững chắc, gốc rễ kiên cố, đại đạo có cơ thành. Thế nào là cương? Cắt bỏ ân tình, nhổ bật gốc trần, đó là cương; không sợ gian khó, đó là cương; chấn chỉnh tinh thần, dũng mãnh tiến lên là cương, không ngủ không ăn, gạt bỏ ngày những thị phi là cương, một lòng không hai lòng, lâu dài vẫn không đổi là cương; hòa đồng mà không bè phái, hợp quần mà không kết vè đảng là cương, không làm điều ác, dốc lòng vì mọi điều thiện là cương; không ưa thích cái người yêu thích, có thể chịu được những điều người không chịu được là cương, trong ngòai như một, công phu không cạn kiệt là cương. Lập nên tính cương như vậy sẽ một đường thẳng tiến, không đến chốn cực lạc không chịu nghỉ ngơi, còn sợ gì không thông đạt tính, không lập được mệnh?
Nhu
Pháp nhu là gỗ để xây nên thần thất. Gỗ tính của nó thuận theo kim, có thể cong có thể thẳng, có thể vuông có thể tròn, tùy đặc điểm mà dùng. Lớn thì dùng vào chỗ lớn, nhỏ thì dùng vào chỗ nhỏ, không chỗ nào không thích hợp, cưa xẻ khắc đục đều chịu được. Muốn tu thần thất, đầu tiên phải làm ra gỗ mộc, gỗ có chu tòan mới bắt đầu tu, như vậy việc ra tay sẽ thành. “Ngọc khu kinh” nói: “Phàm đạo ấy sự thành thực mà vào, lấy sự nhu mềm mà dùng.” “Tham đồng khế” nói: Yếu là hiệu nghiệm của đạo, mềm (nhu) là sự mạnh mẽ của đạo.” Cho nên mềm yếu là cái cần biết trước khi tu đạo. Phàm, người ta từ sau khi sinh ra, bẩm thụ tính của khí huyết, nhiễm sự thiên lệch của thói quen, tranh thắng đua mạnh, lấy khổ làm vui, ngầy ở trên trường danh lợi, đêm rơi vào chốn tửu sắc, tham sân si ái, tất cả đều có; hỉ nộ ái lạc, mọi kiểu đều có; lấy giả làm thật, lấy rỗng làm đầy, không biết quay đầu, giăng lưới đặt bãy, không gì không làm. Sao biết được sự phú quý của Thạch Sùng chỉ là giọt sương trên cỏ, công danh của Hàn Tín chỉ là bóng hoa trong gương, thật không bằng Phạm Lãi quay về hồ, tự rút lui, tự cho mình thấp kém, không có ta chỉ có người, không vọng tưởng mà thuần phác và chân thực. Người giỏi dùng đức nhu xem có như không, đầy như trống, có kẻ mạo phạm mà không so đo, tu cầu tước trời, khinh tước người, cầu pháp tài (vốn liếng tinh thần), tránh xa thế tài (tiền của), không tranh với đời, như Bào Sai, như Bão Phác tử, như Hứa Tinh Dương, như Hòai Nam tử, như Từ Tùng sự, như Chính Dương ông, như Trùng Dương tử. Những bậc chân chính nói trên đều là những người hiển đạt chốn quan trường, đến một lúc chợt tỉnh ngộ, liền tránh xa, tự chăm cho tính mệnh, chịu vô số khổ sở, cuối cùng thành đạo, họ đều là những người có thể dùng đức nhu. Như Tỳ Lăng Sư, ông được Hạnh Lâm truyền thụ, không còn giữ sự ghét bỏ đời màquay lại thế tục, hòa nhập với các nơi, ẩn nơi nhà Trương Hòan Như lặng lẽ tu âm thầm luyện, không để lộ ra thân phận, như vậy là đã có được đức nhu. Như Hác Thái Cổ, sau khi bị Mã Lưu chỉ trích đến ở nơi cầu Triệu Châu, người khinh không biết, nước dâng không nhận ra, vài năm thì thành đạo, là người giữ được đức nhu. Một chữ nhu có tầm quan trọng không nhỏ va có cái dụng rất lớn. NGười tu đạo nếu biết được thế sự đều là giả tạm, thân này cũng chỉ là hư không, ở nơi hố lửa lớn không để ý, ở trong giới vô sắc không lưu tâm, uốn mình cầu người, chân thành khấu đẫuin chân quyết, chắc chắn nhận đượ chân diện vốn có, tẩy sạch huyết tính trọc khí, làm cho công phu ngày càng tăng, theo đạo (thì tâm ý) ngày càng giảm, giảm ròi giảm thêm nữa, cho đến khi không màng đến tíh mệnh là được. Bởi nhu là thuận theo đạo, thuận theo thời, theo lý, dụng công một cách từ từ tuần tự, như vậy sẽ đạt thành tựu cao, đây gọi là đặt thân ở sau mà thân lại ở trước. Nếu không thể nhu thuận, ngang tàng nóng vội, ngọn lửa vô minh sẽ bùng lên, không thể tư dập tắt, tam bảo tổn thương, tòan thân sa vào cạm bãy, gỗ mộc nơi thần thất bị lửa thiêu rụi, không còn gì cả, cuối cùng quay lại lúc trắng tay, vậy có thể hòan thành đại đạo ư! Lão tử nói: Cho khí tụ lại, mềm mại như đứa trẻ sơ sinh được không? Nếu có thể mềm mại như đưa trẻ sơ sinh thì vạn duyên đều là không, biết trống giữ mái, biết trắng giữ đen, gỗ mộc chu tòan, ra công xây dựng, có thể kỳ vọng hòan thành thần thất. Nhu là thế nào? Có người đánh ta cứ im chịu, có người mắng ta cười mà đón lấy, bệnh tật không kể đến, đúng sai không quan tâm, khiêm nhường với người, rũ bỏ sự kiêu căng, cho tính khí dần thuần, luôn kiểm điểm những sai trái của bản thân, luôn chỉnh đốn dung mạo cho hiền hòa, cẩn thận ở nơi không người thấy, e dè ở chỗ không người nghe, thật thà mà làm, không mong muốn gì bên ngòai, tất cả nhân tình thế thái phó mặc ho vô tri, mọi ý niệm xấu xa quét sạch không còn dấu vết. Từng có những tiên nhân cắt bỏ đôi chân, treo trên vách cao, để thân an nhàn, ngồi mãi không động, chính là họ có ý này đây. Như vậy, dụng nhu cầu cúi đầu hành sự, không kiêu căng, không quái dị, không hoang đường, không tự thị, bão nguyên giữ nhất, hàh động cử chỉ nhẹ nhàng như con gái chưa chồng, quên vật quên hình, ý lạnh tâm nguội, ngày ngày luyện tập sẽ có tiến bộ.
Thành
Pháp thành là nền móng của thần thất. Nền móng là thứ vững chắc dày dặn, không gì không chở nổi, thần thất thành hay bại đều từ đây. Đây là yếu tố quan trọng đầu tiên khi tạo lập thần thất. Cho nên nền đã xây xong, vững chãi và bằng phẳng, vĩnh viễn không lo sụt lở. Phàm, tính người khi mới sinh vốn giống nhau, sau vì tập nhiễm mà khác nhau, thiên chân mất hết, dục vọng cá nhân liên tục nảy lên. Những thứ có bên trong là tà tư vọng tưởng, những nơi bên ngòai là hố lửa rừng gươm. Nếu có một hai người tự tiếc thương tính mệnh, cũng không biết bắt đầu từ cội gốc mà chỉ tìm kiếm nơi lá cành, gãi ngứa qua giầy, nhìn mơ để giải cơn khát, uổng khí công lực, sắp chết mới hối. Đạo không được một giây xa rời, có thể xa rời đó không phải là đạo. Đạo không thể xa rời, và quý ở chỗ thành, có thể thành thì có thể học đạo, có thể hiểu và thành được đại đạo. Không thành tâm không thuần phác, tâm không thuần phác tất sinh nghi hoặc, có nghi hoặc thì vọng niệm khởi lên, vọng niệm khởi lên thì chân không vững, từng bước đi vào chỗ giả ảo, từng cử động đều là phiền não, xa hẳn đại đạo, lắp kín chỗ hang linh. Nếu vậy mà mong sáng đạo, không phải viễn vong ư? Thành, là thuần hậu, là chuyên nhất, thật thà, không lừa dối, khong giấu diếm. Giỏi dùng đức thành, quay về thuần phác hồn hậu, bỏ thông minh, vùi trí xảo, chủ ý được yên định, luôn không có hai. Xưa Triệu chân nhân phụng mệnh thầy đi ra ngòai, gặp phụ nữ đẹp không say mê, thấy hổ không sợ hãi, cheo leo nơi vách núi hái đào, liều mình nơi vách đứng, cuối cùng cảm động được tổ thiên sư, truyền cho tâm ấn. Khâu Tổ vì bản thân có ít duyên may, nỗ lực luyện tập, không sợ đói khát, không lo sinh tử, cảm được thần nhân trong không bảo cho lời hay. Hai vị chân nhân này đều là những người có đức thành. Chữ “thành” là thứ không bao giờ rời ra được trong quá trình tu đạo, nếu có thể rời ra thì do đâu mà thành được thần tiên? Do đâu mà bảo tòan được tính mệnh? Thế nàô là thành? Không lo đến an nguy, một lòng hướng về phía trước, nói lời không giả dối, hành động không quái dị, tùy nơi mà an, tùy cảnh mà sống, đến nơi an lạc không vui, gặp úc khốn cùng không phiền, chọn điều thiện mà theo, tuân thủ theo sự chính đáng, đến chết vẫn giữ đạo, vĩnh viễn không thay đổi, có lỗi thì sửa, gặp việc hay thì làm. Dùng đức thành như vậy, bụi trần không sinh, vạn vật khó lay chuyển, nội niệm không ra, ngọai niệm không vào, tam thi mất dấu, lục tặc diệt xong, nền móng của thần thất đã nên. Từ đây tạo dựng nghiệp lớn, không gì không thuận lợi. Nên người tu đạo cần bước chân vững vàng, công phu mạnh mẽ, đổi thay lòng dạ đời thượng, chọc phá hỗn độn, lấy ra bảo trượng, nơi nơi quay về chân, việc việc quay vè chính, lấy gốc làm cốt yếu, lấy thật thà làm trước tiên, ngòai tính mệnh không còn biết gì khác ngòai đạo đức không còn hiểu gì hơn. Người ta học một lần hiểu mình phải học trăm lần, người ta học mười lần thông mình phải học nghìn lần. Nếu có thể theo cách này, dù ngu cũng trở nên sáng suốt, dù nhu nhược cũng thành mạnh mẽ, một pháp thành, há phải điều nhỏ bé!
Tín
Pháp tín là rui ngói của thần thất. Rui ngói là thứ gôm tụ nhất khí, che chắn trên dưới, bảo vệ tòan ngôi nhà. Rui ngói kín kẽ đầy đủ, ngòai thì ngăn gió độc, trong tích tụ hòa khí, thần thất có thẻ vững bền lâu dài không hư họai. Bậc chí thánh Khổng tử nói: “Từ xưa ai mà không chết, nhưng dân không tin thì ngôi vị không vững được.” Lão tử nói: “Thấp thóang mập mờ, bên trong có vật; sâu thẳm tối tăm bên trong có tinh. Cái tinh này vô cùng chân thật, trong nó có tín. Trong “Chu dịch” lời từ của quẻ Trung phu nói: Ở trong lòng có tin thực, thông cảm được cá heo tốt. Xem đây thì biết tín là gốc rễ của nhân sinh, là điều quan trọng của thần thất. Nếu không có tín, tứ tượng không hợp, ngũ hành không hài hòa, lưỡng nghi không phân riêng, tam bảo đều rơi rớt, đại nghiệp không thành. Xưa Lã tổ vừa mộng đã vào được đại đạo, đó là có tín. Đan Dương nhận ra cái chết và thóat khỏi tình đời, là có tín. Thần Quang chặt đứt cánh tay để cầu pháp, là có tín. Có được nhất tín này thì thành đạo, mất nhất tín này thì hỏng đạo. Sự được mất của tín có liên quan đến sự thành bại của đạo nên người tu đạo lấy tín làm gốc. Thế nào là tín? Trung hiếu liêm sĩ giữ trọn đến cùng, nhân nghĩa lễ trí mỗi thứ đều phù hợp, không lẫn lộn thị phi, phân rõ chính tà, sơ niệm không thay đổi, chính niệm thường tồn, đối nhân xử thế không thừa gió bẻ măng, ngày đêm làm việc không che mờ tâm tính, đối cảnh vong tình, ở nơi trần thế mà thóat khỏi trần thế, gặp bất kỳ cảnh gì cũng không thay đổi, ở trong đời mà lìa khỏi đời, nên chậm thì chậm, phải gấp thì gấp, nên sau thì sau, cần trước thì trước, nên tiến thì tiến, phải lùi thì lùi, nen bỏ thì bỏ, cần lấy thì lấy, người và ta như một, thân và tâm không là hai, cho đến mức nhất khí hỗn độn không tan, thái cực viên mãn không khuyết, hái thuốc trong sư bất động, vận hỏa hậu trong sự vô vi, trong giả cầu thật, trong thật bỏ giả, không gì không vận dụng nhất tín. Phàm tín là Trung phu (trung: bên trong; phu: tin thực), không hòai nghi, không thay đổi, nhận chân sự thật, có chủ kiến vững vàng. Đạo lớn từ trươc đến sau quy kết vào tín, tửu sắc tài khí đều dùng tín nghiệm ra, hỉ nộ ái lạc đều dùng tín chứng đến, nghe nhìn nói hành động đều dùng tín ấn chứng, phẩm hạnh cao thấp đều dùng tín phân biệt, hữu vô tà chính đều dùng tín làm rõ, ngũ hành tứ tượng đều dùng tín gôm tụ. Hiểu được điều này là thần là thánh; không hiểu được điều này là người là quỷ ma. Bậc chí thánh Khổng tử nói: “Người mà không có tín không biết anh ta có thể làm gì? Như xe lớn không có ách, xe nhỏ không có đòn, sao có thể đi được?” Tín và không tín, tính mệnh và sống chết khác nhau từ đây, cát hung hối lỗi phân ra từ đây, có thể không lo sao? Người tu hành nếu có đức tín thì thàn thất nghiêm mật, vĩnh viễn không lo thấm lọt, có thể trường sinh bất tử. Nhưng chỗ mấu chốt này, nói thì dễ, hiểu thì khó, thực hiện càng khó hơn. Tín có cái nghĩa rất xâu xa, cái lý rất diệu kỳ, không phải là “tín” trong lời nói thường ngày, mà là tín của đạo lớn, là tín của thiên bảo. Hiểu được tín này có thể thuận tay với tới thiên bảo. Những thứ khác đều là việc nhỏ. Vậy mà người học phần lớn không có lòng tín, sao vậy?
Hòa
Pháp hòa là cửa của thần thất. Cửa là thứ sáng sủa thông thóang, tuyệt đsi không cản ngại che chắn, ra vào tùy ý, đóng mở tùy thời, đề phòng bên ngòai cẩn thận bên trong. Cửa được làm xong thì thần thất thành nên. Hữu tử nói: Trong những cái dụng của lễ thì hòa là điều quý giá. “Trung Dung” nói: “Hòa là đạo lý thông đạt trong thiên hạ.” Không hòa thì không thể đúng lễ, không hòa không thể đạt đạo. Nghĩa của hòa không phân biệt lơn nhỏ, trong ngòai, không có bến bờ, không hình không sắc. Trời được nó thì bốn mùa thuận theo nhau, đất có được nó thì vạn vật sinh ra, người có nó thì tính mệnh ngưng, trở thành người đạt đạo thật sự. Phàm hòa là thống suốt, thuận lợi, vui vẻ, ung dung, từ tốn. Muốn dưng nên thần thất, không có hòa không thể. Ngày xưa Đạt Ma nhìn thấy Thần châu ở Đông thổ có hí tượng đại thừa liền vào Trung Quốc làm nên nghiệp lớn, chính là thực hiện đức hòa. Huệ Năng không nghĩ về thiện ác, còn chưa làm nên việc gì, sau ẩn trong đám thợ săn mà nên đại sự, chính là nhờ thi hành đức hòa. Đến như Hà xa ông ản trong vườn, Duyên Đốc tử ẩn trong tiệm buôn, Vương Thập Bát ẩn trong hàng ngũ tôi tớ, họ đều hòa đồng cùng trần thế, dựa vào thế gian pháp mà tu vượt ra khỏi thế gian. Nên người giỏi dùng đức hòa, không sợ đời tục, không hãi chỗ đông, không cố chấp, không thiên lệch, vuông tròn tùy thời, trong cương nogài nhu, đại trí mà như ngu muội, vô cùng khéo léo mà như vụng về, âm thầm tu luyện không ai hay biết. Nếu chỉ biết ta không biết người, hành động cố chấp, không tránh khỏi thái quá, bất cập, muốn trộm tạo hóa, hợp âm dương, từ trong vô ính hữu, trong hữu sinh vô, tạo nên thần thất, vĩnh viễn là tòa nhà vàng không hở lọt, thì khó lắm. Thế nào là hòa? Khiêm nhường với người, cung kính với người, tâm bình tính nhu, không chút nóng nảy, giận dữ không sinh, lớn mà có thể làm như nhỏ, mạnh mà có thể làm như yếu, không chấp vào tường ta hay người, không phân biệt quý tiện giàu nghèo, hòa giải tính khí chất, tiêu trừ lòng đố kỵ, lời nói việc làm ứng với nhau, động tĩnh tùy lúc, không thích việc xấu, không gì không sáng tỏ, không nói lời quái dị, khong làm việc giả tạo, chỗ của hòa rất nhiều, tóm lại chỉ nằmở chỗ linh động mà bảo tòan được thần, theo vật ứng với vật. Ta khuyên những người cùng chí hướng, nhanh chóng lật đổ ngọn núi ngăn cách ta người, lập tức mở toang hang rồng hổ, quét sạch cái tâm cao ngạo khinh mạn, trệ khí huyết tính, thiên kiến hẹp hòai, và tất cả những sự bất bình không thuận, bất trung bất chính, thay vào đố là tính tình hài hòa yên bình. Lấy tư cách ôn nhu, lặng lẽ vận hành thần minh để cầu được thuốc tiên thiên chí chân, điểm hóa cái âm hậu thiên ô trọc, tự nhiên hữu vô thành một, động tĩnh luôn tự tại, trở lại diện mạo lương tri lương năng vốn có của ta, bước lên bậc thánh nhân. Ôi! Khiêm tốn thì được lợi, tự mãn triệu tai ương, người học có thể không tự cố gắng ư!
Tĩnh
Pháp tĩnh là vách tường của thần thất. Vách tường là thứ căn bản ngay nắn, cao thấp thích hợp, không rạn không nứt, nhằm ổn định rường cột, giữ kiên cố trên dưới. Tườn vừa được dựn thì thần thất đã nên hình. Lão tử nói: “Giữ cho thật hư tĩnh, xem vạn vật sinh trưởng, ta thấy được quy luật phản phục.” Lại nói: “Người có thể luôn thanh tĩnh, trời đất đều phải quay về.” Từ đó có thể thấy rằn nười tu đạo không đến mức cực thanh cực tĩnh thì thiên tâm không quay về, thần thất không thành. Cực hư thì sẽ tĩnh, cực tĩnh thì sẽ độngg. Ở khoảng giữa động và tĩnh thiên tâm hiện ra. Thiên tâm là tâm của trời đất. Tâm của trời đất trở lại tức trời đất đã quay về. Nếu khôn đạt đến cực tĩnh thì không thể. Tĩnh là định, là tịch (im lìm), là bất động, bên trong yên ắng, không có niệm và dục. Không niệm không dục, yên tĩnh bất động, kín kẽ thanh khiết, gió độc không len vào được, bụi trần không dấy lên. Tường của thần thất kín và gỗ mộc dù lâu đời vẫn như mới, thì vĩnh viễn không bao giờ hư hỏng. Cho nên người giỏi dùng tĩnh thì gặp điều đắc ý không vui, gặp chỗ thất ý không phiền muộn, chuyên tâm bền chí, đối cảnh vong tình, không dao động, như mặt gương sáng mặt nước lặng. Linh khiếu của con người sau khi tiên thiên thất tán, bị lòng tư dục che khuất, bị tình trần quấy nhiễu, suốt ngày lao đao không lúc nào yên tĩnh. Tâm không yên tĩnh, vọng niệm dồn dập xuất hiện, những điều làm được đều là lấy khó làm vui lấy giả làm thật, thật giả lẫn lộn, thế đạo lớn sao thành? Người tu đạo muốn tu thần thất, đầu tiên cần luyện tĩnh, nếu đạt đến tĩnh, thần thất dễ thành được. Tĩnh không phải chỉ sự im lìm trơ trơ, cũng không phảii là ngồi tham thiền quên vật quên hình, mà là thường ứng thường tĩnh, thân ở trong việc mà tâm ở ngoài việc. Tĩnh thật sự thì một ý cũng không thành, một niệm cũng không khởi, lời không hư cấu, thân không vọng động, việc trước không nghĩ nữa, việc sau không tính đến, không xét đến cái tệ của người, không biết đến cái giỏi của ta, luôn luôn chăm chú vào đạo, luôn soi chiếu vào nội tâm, không lao tâm vì đói khát, không hủy đạo vì áo cơm, sinh tử thuận theo mệnh, người và ta không phân biệt. Điều không hợp lễ không nghe, không hợp lễ không nói, không hợp lễ không nhìn, không hợp lễ không làm; khó khăn không làm lòng đen tối, sáng tối không lừa dối được, vọng niệm vứt đi và chân niệm sinh ra, đạo tâm hiện thì nhân tâm diệt, đó gọi là chân tĩnh. Cái tĩnh của chân tĩnh vốn nằm ở thái cực, không bị tạo hóa dời đổi, bốn mặt của thần thất cứng rắn như thùng sắt, gió rét nóng ẩm (phong hàn thử thấp) đều không xâm nhập được, hổ sói không vào tới được. Ta khuyên người tu đạo nhanh chóng buông bỏ lòng toan tính thay đổi, nhanh chóng lấy lại diện mạo ban đầu của mình, chủ tâm vừa định liền đạt đến chỗ chí thiện, tĩnh lặng, đỏ au, làm người vô sự trên thế gian, mở rộng chính pháp nhãn tàng của đạo. Cái dụng này là vô cùng.
Hư
Pháp hư là gian phòng chính bên trong thần thất. Gian phòng chính bên trong chủ về trống rộng và thanh khiết, bụi trần đã quét sạch, vật tạp không còn lưu, là nơi để bày châu báu, nghênh đón khách quý. “Ngộ chân” nói: “Đạo từ hư vô sinh ra nhất khí, rồi từ nhất khí sinh ra âm dương, âm dương hợp lại thành tam thể, tam thể lại sinh ra vạn vật. Nên cổ tiên nói: “Khí tiên thiên từ hư vô đến.” Riêng lấy cái hư làm đầy nền tảng, lấy cái thực làm trống sự hiệu nghiệm. Bởi đạo nhìn thì không thấy, lắng tai không nghe, nắm lấy không được, nó vốn chí vô. Chí vô thì chí hư, nhưng chí hư thì không việc gì nó không bao trùm, nên thần thường lấy sự hư trống bên trong làm cốt lõi. Hư trống bên trong thì âm dương thuận theo trật tự, tinh thần tròn đầy, nhất khí hỗn lộn, không trong ngoài trái phải, không trước sau trên dưới, và nằm trong sự thấp thoáng mập mờ. Hư là hư không, là vô là rộng, vô hình vô sắc. Đạo rất đỗi hư vô, không hình không sắc, tứ tượng ngũ hành, tam nguyên bát quái, hỗn trộn mà hợp thành một, hòa trộn thành thái cực và thần thất viên mãn. Nên người giỏi dụng hư, xem thường tất cả, độ lượng như trời đất, tâm trong như thái hư, xem thân là gông cùm, hình hài là ung nhọt, tứ đại là phân tro, lục môn là lỗ trống, xem phú quý như phù vân, danh lợi như sương móc, thế sự như ảo mộng, tình vaf dục như kẻ thù. Nên người có chí không bị vật giả tạm mê hoặc. Phàm người ta từ sau khi sinh, tích tụ khí tạp nhiễm đầy ắp trong ngực, không vật gì không có, không việc gì không từng, vứt châu báu vốn có ra ngoài, tính không có nơi gửi gắm, mệnh không có chỗ nương nhờ, tính rối bời mệnh lung lây, ngày càng xa đạo. Không chỉ thần thất thương tổn mà ảo thân cũng tiêu ma. Cho nên cách đẻ bảo toàn thần thất chủ yếu là làm trống bên trong (hư trung). Thế nào là hư? Trừ bỏ tạp niệm, biến hóa khí chất, đào bỏ hạt giống luân hồi vạn kiếp, nìn thấu tất cả những ràng buộc của ân tình, không giữ điều giả nào cả, không chấp nhận vật bên ngoài, vạn pháp quay về không, tứ đại buông thả, không có mắt mũi tai miệng lưỡi thân ý, không cả thanh sắc hương vị xúc pháp, không sợ sệt và phiền não, không ưa ghét yêu giận, không siểm nịnh, không kiêu căng, không giả dối, không cuồng vọng, không cố chấp, không cho mình đúng, không bảo thủ, không yêu một vật nào, không thu nạp chút bụi trần, không có hữu vô, thân tâm không trói buộc. Người tu đạo nếu có thể như vậy thì gian phòng bí ẩn của thần thất sẽ mở rộng sáng sủa và yên lành, không chút cặn bả, đồng thể cùng thái hư, khí tiên thiên tự nhiên từ trong hư vô trở lại, hỗn trộn mà không tan đi, thủy hỏa không mong đạt mà tự đạt, kim mộc không mong sánh cùng mà tự sánh cùng, đại đạo sẽ thành. Ta khuyên người tu đạo, mọi chuyện đều là không, chút bụi trần không nhiễm, muốn đầy bụng phải trống tâm, muốn sinh ra cái sáng trắng phải làm trống nhà, từ nơi không chút chấp trước lưu thần dừng chân, như vậy không sợ không đến được nơi vô cùng tự đắc.
Linh
Pháp linh là chủ nhân của thần thất. Có nhà mà không có người, lâu ắt có thấm lọt, thần thất hư hỏng. Tiên sinh Vương Sung Hi nói: Nhất linh diệu hữu, pháp giới viên thông. Tử Dương chân nhân nói thế nào? XưaTử Dương được Hải Thiềm truyền thụ, chân tri lóe sáng, tùy cơ ứng biến, hòa đồng cùng trần tục, dọc ngang tự tại, không gì bó buộc, nên thành đạo khác hẳn mọi người, trở thành tổ thứ nhất của phái Nam tông. Đạo tu chân, có thể linh thì viên thông không chướng ngại, không linh thì cố chấp bám vào không. Cố chấp tất không thông suốt, không thông suốt không bỏ được thái quá và bất cập. Nếu thái quá và bất cập thì mất đi đạo trung chính, sao có thể được thuốc nơi thấp thoáng mập mờ sâu thẳm tối tăm, sao vận hỏa hậu ở trong sự tự nhiên vô vi? Vì như vậy sẽ tiến thoái không đúng lúc, nhanh chậm không hợp lẽ, già non lỡ thời, âm dương lỡ làng, bỏ đạo rất xa? Thế nào gọi là linh? Đầu tiên phải rõ rằng cái mọi người gọi là linh không phải là cái linh của người tu chân, tìm kiềm tiên thiên gọi là linh, trừ bỏ hậu thiên gọi là linh, điều hòa tính tình, ngoài tròn trong vuông gọi là linh, áo thô bọc ngộc, tâm chết thần sống gọi là linh, hổ không hai được người gọii là linh, rồng không phun được sương gọi là linh. Người tu đạo có pháp linh này, có thể động, tĩnh, có thể cương nhu, thành tín đắc trung, hòa tĩnh đắc chính, nắm được tính mệnh, thần thất có chủ, vĩnh viễn không hư hoại, đạo lớn hoàn thành. Ta khuyên các đồng đạo, hồi quang phản chiếu, gõ trúc đánh đàn,trong mười hai canh giờ, không phải che mờ bản thân, mà cần kiểm điểm về hiện đại, hăng hái tự tỉnh ngộ như động trống gọi vào liền ứng ra, như chuông vàng đánh vafo liefn ngân lên, như kính báu chiếu vào liền thấy ngay, tịch nhiên bất động, cảm đến liền thông, thần kỳ mà sáng suốt, những điều đó đều có trong người. Pháp này không hỏa hậu, không thuốc thang cân lạng, không thứ lớp, cứ luyện mãi thì công phu đầy đủ, tính mệnh vẹn toàn, có thể quyết được nơi lý. Tuy nhiên, chân linh há dễ biết đâu! Cũng đâu dễ luyện! Không dễ biết vì không thể lấy hữu tâm để cầu, không thể dùng vô tâm mà được. Lấy hữu tâm cầu nó thì chấp vào hữu, lấy vô tâm cầu nó thì chấp vào vô. Không dễ luyện, vì không thể cố gắng luyện, không thuận việc mà làm. Cố gắng luyện thì chân không chân, thuận theo việc thì linhh không linh. Đó là bởi hữu vô không câu chấp, thuận nghịch đều dùng, cơ sống động thần viên mãn, như vậy thì có được pháp linh. Chỉ sợ người không nhận ra được, bỏ chính lấy tà, trong rơi vào hai bậc giữa và dưới thì cũng chấp vào tướng, không những vô ích mà còn có hại. Có thể không đáng buồn ư!
Ngộ Đạo Lục
Tựa về việc tái bản Ngộ Đạo Phá Nghi TậpTa đối với Đạo này, hâm mộ nhiều năm, mà cuối cùng thì thị phi tà chính khó thấu triệt. Năm Canh Ngọ, gặp bái Lai Trung lão sư, nhờ ân chỉ cho về Chính Đạo. Năm Tân Mùi triêu yết các danh sơn, đến tỉnh Cam Túc, hỏi được về Thê Vân Sơn Ngộ Nguyên lão nhân, tiếp tục chú giải [Chu dịch xiển chân] và Đan kinh của các tổ sư, rồi tự sáng tác các sách [Ngộ đạo phá nghi], [Tu chân biện nan], tinh nghĩa nhập thần, sáng rõ như mặt trời, liền đến yết kiến. Mà tứ phương danh sĩ tham phỏng rất nhiều, mà chấp dịch môn hạ cũng không ít. Ta nhờ thụ nghiệp, mà nhận được các sách. Quay về quê hương, lại gặp thầy ta, đặc biệt đưa ra các sách thỉnh được của Ngộ Nguyên lão nhân, để hỏi về các chỗ nghi vấn. Thầy ta lần lượt đọc duyệt, hân thưởng không thôi, nói: “Những cái ông chú, thật là quy củ của nhà nhà, lời lời mô phạm, hiển nhiên dễ thấy, giản dị mà đầy đủ, thực là cái đường hướng để tu thân lập mệnh, là khuôn phép của tam giáo uyên nguyên. Nhưng bộ sách này thật là đồ sộ, mà trực chỉ khiếu diệu, biện minh thị phi không gì hơn cái này vậy! Ví như có thể thích mà nhập đạo, cũng không phải là việc hi hữu!”. Lúc này, đồng bạn thích sách này rất nhiều, mà sách chỉ có một bộ, không thể truyền rộng, nên thầy ta nói: “Giữ cho riêng mình, không bằng công bố cho các đồng chí hiếu đạo, để xiển phát được chủ ý của Ngộ Nguyên, khai mở chính tông cho hậu nhân, cũng là công đức thịnh hành vậy!”. Nhưng lúc đó trong túi không dư dả, khó mà in hết, nên chỉ đem [Ngộ đạo phá nghi tập] mang đi khắc bản, in ra để hành thế, vì sách này quét sạch bàng môn, cốt đưa ra được yếu lĩnh, để mà trừ tà theo chính, thực là thứ trân quý khó có được vậy. Còn các bản khác, nhờ các vị hữu chí quyên góp in ấn bổ sung hộ.
Năm Bính Tý, niên hiệu Gia Khánh thứ 21, ngày nóng nhất giữa mùa đông, Hạ Phục Hằng cẩn tự.
Ngộ đạo phá nghi tập nguyên tự
Ta là người cực chẳng ra gì ở thế gian, lúc nhỏ học tập Nho, cuối năm 20 tuổi, đã có ba bệnh lớn, hầu như mất mạng. Vì bệnh mà ngộ ra, liền mộ đạo, nhưng vẫn còn nghi ngờ, cho rằng thế gian vị tất đã có thuật kéo dài tuổi thọ này. Nhân đến Tây Tần dưỡng bệnh, đi qua Kính Dương, gặp một ông lão đầu bù, mới gặp mà như đã quen lâu. Ta nói đến thiết thân đại sự. Ông nói: “Đạo Tính Mệnh, người người có phận, chỉ tại có chí hay không có chí thôi”. Rồi ban cho phương thuốc hay. Lúc đến Nam An, theo phương thuốc đo mà điều trị, chư bệnh liền hết. Từ đó lập ý bên ngoài, cho là phương pháp để tu. Sáng họ Vương chiều họ Lí, cứ vậy vài năm, không chỉ trong tai chưa nghe chính lí, mà chính nhân thì trong mắt chỉ thấy vài người. Sau đến Kim Thành, nghe có Kham Cốc lão nhân, mặc nho phục, đội mũ nho, cử chỉ khác người, người không thể dò. Ta liền tới khấu yết, thấy hành tàng cao siêu, khác với người thường. Đến lúc nghe ngôn đàm, đều là nghĩa lí. Ta tuy không biết thân phận nông sâu thế nào, mà biết chính xác là chân cao nhân. Cơ duyên đưa tới, được vào chính môn, lại dặn đầu tiên phải tận nhân sự. Tuân mệnh về quê, nhàn tản phụng thị song thân, tĩnh xem chư gia đan kinh, hoặc rõ hoặc mờ, không thể xuyên suốt quán thông, thì biết là còn có bí mật.
Sau đó đi lên phía bắc tới Yên Kinh, xuống phía nam tới Hà Nam, Tần Tấn quận ấp, không đâu không đến, gặp những vị tu hành, đều chưa thể khai phá những chỗ nghi ngờ của ta. Sau đến Hán Nam, gặp được vị tiên Lưu trượng nhân, khai mở bảo tàng, đưa ra châu ngọc, nhất nhất chỉ rõ. Bao nhiêu mối nghi ôm trong lòng 13 năm, lúc đó đập tan hết thảy! Mới hay Đại Đạo tất yếu chân truyền, Tính Mệnh còn cần song tu, không như bọn bàng môn đường rẽ, chấp không chấp tướng vậy. Chỉ ân hận tự mình túc căn không sâu, công hạnh không lớn, lực lượng hữu hạn, nay đã 78 tuổi, còn ở giữa đường, chưa lên Bỉ Ngạn, ơn thầy to lớn, thật mình đã phụ. Nhưng tuy Đại Đạo chưa thành, mà với các thứ như tác nghiệt tạo tội, trở ngại Tính Mệnh thì đều thoát cả, bèn đem việc duyệt đường rẽ năm xưa, sau gặp pháp nhãn biên thành hai cuốn [Ngộ đạo lục], [Tượng ngôn phá], hợp thành một tập, tên là [Ngộ đạo phá nghi tập], vì người học mà giúp một bó đuốc sáng. Tự mình chưa thành Đạo, mong nguyện người thành Đạo, tạm để chuộc tội phụ lòng thầy, không dám tự khinh và khinh người, mà không cần danh dự vậy. Đây là tựa.
Đại Thanh, năm Tân Mùi niên hiệu Gia Khánh thứ 16, ngày mùng 3 tháng 3, Thê Vân Sơn Ngộ Nguyên Tử Lưu Nhất Minh tự viết tựa trong Tự Tại Oa.
Ngộ đạo lục nguyên tự
Đạo ở trong khoảng đất trời, không vật gì không có, không chỗ nào không có, trên thì nhật nguyệt tinh thần vân điện lôi vũ, dưới thì sơn xuyên thảo mộc điểu thú nhân vật, cho đến các vật xuẩn động hàm linh, hữu tình vô tình, không gì không phải Đạo Khí vận dụng. Đạo ở trước mắt, chỉ vì người chẳng chịu nghiên cứu kỹ! Ta lúc 20 tuổi, thì biết có Tính Mệnh nhất đại nhân duyên, sáng họ Vương chiều họ Lí, thành tâm học hỏi, không phải thuyết chấp tướng, thì là việc chấp không, hơn 10 năm, tham cầu nhiều người, chưa được nghe một chút lí nào. Sao gặp thầy ta là Kham Cốc lão nhân, sau vài câu, là phân ra tà chính, lại gặp tiên ông Lưu trượng nhân, chỉ rõ chỗ tế vi, mới thấy chỗ ảo diệu. Đã đắc bí chỉ của hai thầy, thực ngộ ra trong khoảng đất trời vạn vật vạn sự, phàm cái mắt thấy, cái tai nghe, chỗ chân đã đến, việc thân đã trải, rõ ràng minh bạch, cái gì cũng tàng chân, mới hay cổ kim Đan kinh Tử thư nói về Tiên Thiên Hậu Thiên, hữu vi vô vi, Dược Vật Hỏa Hậu, tiến thoái dừng đủ, kết Đan thoát Đan, thuận hành nghịch vận đủ loại pháp tượng, là đều lấy cái lí nguyên có sẵn sàng trong khoảng đất trời, mà phát huy xiển dương. Tịnh chẳng phải cưỡng mà bịa ra, mà tác ẩn hành quái .
Thực thương thay hậu thế học nhân chẳng có chân tâm thật ý, không hạ quyết tâm, không chịu được năm tháng, hoặc hư huyền bất thật, hoặc đầu chăm cuối nhác, hoặc theo bàng môn công phu, tự lầm và làm người lầm, hoặc xem vài câu Đan kinh, liền tự phụ là có Đạo. Như các bọn đó, đều là tự ngăn trở tiền trình, chung quy hư vọng. Ta nhân đó đem các điều vật lí trước mắt mà ai ai cũng thấy cũng biết, rút lấy 81 điều, cũng không xếp thứ tự, cũng chẳng phân trước sau, cứ theo từng việc mà phân tích, đặt tên là [Ngộ đạo lục], phụ thêm 72 đoạn [Thán đạo ca], mong dùng những chỗ tự ngộ giúp người người đều ngộ. Người học nếu có thể viễn thủ chư vật, cận thủ chư thân , dùng cái hữu tượng để xét đến cùng cái vô tượng, dùng cái hữu hình biện rõ cái vô hình, cực thâm nghiên cứu, chí niệm không thoái, công lực lâu ngày, tất tự có thành tựu. Đây là mong muốn của ta vậy!
Mùa hè năm Canh Ngọ niên hiệu Gia Khánh thứ 15, Tố Phác Tử tự viết tựa trong Tự Tại Oa.
Ngộ đạo lục quyển thượng
Thiên cao địa hậu - Trời cao đất dàyThể của trời thì rất cao, hư không tròn trịa không dò được, khuếch đại vô biên, không gì không che, không gì không chứa, bắt đầu vạn vật mà không cậy đức, ban ơn cho vạn vật mà không mong báo đáp, con người tôn kính là vì đó, con người coi thường cũng là vì đó, con người cảm kích mà yêu cũng là vì đó, con người chửi rủa cũng là vì đó, sự yêu ghét xấu đẹp của con người, sự hung ngoan lành thuận, đều để mặc tự nhiên mà không tính toán.
Thế của đất rất dày, ở thấp mà cư xử khiêm hạ, không vật gì không chở, không vật gì không nuôi, lớn như Thái Sơn, Tung Sơn, rất nặng mà vẫn có thể chở, sông nước biển hồ mạnh mẽ cũng có thể thụ nhận, cây cối thảo mộc xuyên vào mà vẫn chịu đựng được, phi cầm tẩu thú bước lên mà có thể thuận theo, toàn bộ các thứ bẩn thỉu và khinh thường đều không biết đến.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo hiệu thiên pháp địa . Người mà tính cách có thể độ lượng khoan dung, không vật gì không dung, giúp người già thương kẻ nghèo, phù nguy cứu khốn, thi đức không mong báo, cói oán mà không kết, ta người như nhau, đây đó như một, thì có thể giống như trời. Người mà tính cách có thể nhu nhược tự hạ, khiêm ti tự xử, không chút nóng nảy, trừ hết tính nóng, bị chửi mà không giận, bị lăng nhục mà không hiểu, gian nan khốn khổ tùy thời, tật bệnh tai hại thuận thụ, toàn bộ đại hiểm đại nguy, những cảnh ngộ không thuận lợi, đều không có lòng phiền não oán ưu, thì có thể sáng ngang với đất. Cao thì bắt chước trời, thấp thì bắt chước đất, thì hợp đức cùng trời đất mà trường cửu cùng trời đất vậy!
Nhật nguyệt quy lâm - Nhật nguyệt chiếu soi
Mặt trời vận dụng, ban ngày thì bay lên trời mà chiếu ra ngoài, ban đêm thì nhập vào đất mà chiếu vào trong. Mặt trăng vận dụng, nửa tháng đầu thì sinh ánh sáng để chiếu ra ngoài. Nửa tháng sau thì giảm ánh sáng mà dưỡng bên trong. Mặt trăng mặt trời chiếu sáng bên trong chiếu sáng bên ngoài, đều là một loại sáng.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo dùng ánh sáng! Người mà có thể dùng sáng ở bên ngoài, lời nói và hành vi cẩn thận, điều phi lễ thì không làm, điều phi nghĩa thì không thi hành, không phải Đạo thì giao thiệp, không bị tửu sắc tài khí mê hoặc, không bị phú quý công danh dụ dỗ, không bị trần duyên thế tình lây nhiễm, là như mặt trăng mặt trời chiếu sáng bên ngoài vậy. Người mà có thể dùng sáng ở bên trong, ngăn tà tồn thành, bỏ vọng quy chân, giảm giận lắng dục, phiền não không sinh, sân hận không khởi, phạt Tam Thi, trừ Lục Tặc, tảo Thất Tình, tịnh Bát Thức, tiêu diệt Nhân Tâm, chấn phát Đạo Tâm, giới thận khủng cụ , không chút vọng niệm, là như mặt trăng mặt trời chiếu sáng bên trong vậy. Trong sáng ngoài sáng, không gì không sáng, cùng sáng như mặt trăng mặt trời, bồi dưỡng đến cùng cực, thì tròn trịa, sáng lấp lánh, vạn vật khó che, mà nhất linh diệu hữu, pháp giới viên thông, thì cùng công vận với mặt trăng mặt trời vậy!
!
Lôi minh phong xuy - Sét gầm gió thổi
Sét gầm mãnh liệt mà cương, gió thổi dần xa mà nhu, phong lôi đánh nhau, hai mà hợp một, nhu hoãn trong cương liệt, trong nhu hoãn tàng cương liệt, cương nhu theo nhau.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo cương nhu trung hòa. Phàm con người tu Đạo lập Đức, ứng sự tiếp vật: một thì cương cấp hiếu cường, mà quá nóng, làm việc không lâu, sắc bén quá tất bại; một thì nhu thì rụt rè lo sợ không quả quyết, mà lạc vào nhu nhược, làm việc khó thành, nhu đó vô dụng. Nếu có thể cương để quả quyết, nhu để thi hành dần, không nhanh không chậm, không nóng quá không nhu quá, cương nhu giúp nhau, đắc được trung hòa, thì càng làm càng giỏi, theo đó học Đạo, thì cuối cùng tất rõ Đạo, theo đó tu Đạo, thì cuối cùng tất thành Đạo. Nên thánh kinh nói: “Trung là gốc lớn của thiên hạ. Hòa là sự đạt Đạo của thiên hạ”. Đạt được trung hòa, thì sắp đặt trời đất, sinh dục vạn vật. Đạo trung hòa há bé nhỏ sao!
Tứ thì đại tạ - Bốn mùa thay đổi
Bốn mùa xuân hạ thu đông, xuân thì sinh vật, hạ thì trưởng vật, thu thì thu liễm vật, đông thì tàng vật, mỗi cái có riêng sự thay đổi, chu nhi phục thủy, tiếp nhau liền nhau, chưa từng gián đoạn.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo tổn ích nương nhau vậy. Tổn là tổn bớt cái dư thừa của nóng vội quá cương, ích là ích cho cái không đủ của nhu nhược, cương thì không để thái quá, nhu thì không để không đủ, cương lấy nhu để tiếp, nhu lấy cương để dụng, cương nhu giúp nhau, Âm Dương tương đương, có thể lớn có thể bé, có thể cao có thể thấp, có thể tiến có thể thoái, có thể thuận có thể nghịch, vuông tròn chẳng câu chấp, cong thẳng song hành, thì hợp thứ tự với bốn mùa, biến thông không trở ngại. Thân ta tự có một trời đất, tâm ta tự có một tạo hóa, mà không bị trời đất tạo hóa trói buộc vậy!
Nguyệt tá nhật quang - Mặt trăng nhờ ánh sáng của mặt trời
Trăng vốn thuần Âm vô Dương, nhờ ánh sáng của mặt trời mà sau đó sinh ra ánh sáng, ánh sáng trăng khi đầy khi khuyết là vậy.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo mượn Dương hóa Âm vậy. Con người vốn nhất thân thuần Âm vô Dương, cần mượn Dương của nhà khác mà làm Dương. Nhà khác đối với nhà ta là toàn bộ các thứ: trời đất, nhật nguyệt, vạn vật, vạn sự. Gọi là Dương của nhà khác tức là Tiên Thiên Hư Vô Chân Nhất Chi Khí, tức là Bất Tử Chi Nhân. Từ lúc sinh ra thì Khí này vốn có, sau khi giao với Hậu Thiên, thì dần tản vào trong trời đất, nhật nguyệt, vạn vật, vạn sự, không còn là của ta, là thuộc về nhà khác vậy. Biết được Khí này ở tại nhà khác, thì tùy thời mà trộm mang về nhà ta, từ vô phục hữu, đã mất lại được, cũng như trăng nhờ ánh sáng của mặt trời mà sinh ánh sáng. Đây là Thiên Cơ trộm đoạt tạo hóa, điên đảo Âm Dương. Kẻ mê ở đời, nhầm coi phụ nữ là nhà khác, đúng là đồ địa ngục chủng tử.
An Lô lập Đỉnh - Đặt lò dựng vạc
Người nấu luyện khi luyện thuốc, đầu tiên phải đặt bếp lò, dựng vạc. Vạc là vật cương, cho nên để tàng thuốc; bếp lò là vật nhu, cho nên để vận lửa. Vạc mà không kiên cố thì dễ mất thuốc, bếp lò mà không vững thì lửa bay lung tung.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo rèn luyện thân tâm vậy. Tu đạo mà chí niệm kiên cố tức là Đỉnh; càng lâu càng cố gắng, bách chiết bất hồi , không động không dao, là lập Đỉnh vậy; tùy thời mà suy xét là Lô; dần dần dụng công, thong thả không vội là an Lô vậy. Đỉnh Lô vững vàng, nung bỏ Luân Hồi Chủng Tử bao kiếp tới nay, làm lộ xuất Càn Nguyên Diện Mục lúc mới sinh thân, thoát hết toàn bộ tạp chất có sau, khoáng tận kim thuần, tức là bỏ điều xấu cũ, lập ra điều mới. Từ đó lại hoán Lô Đỉnh, đặt riêng kìm búa, để làm công việc cao hơn, nung hóa Chân Kim, thành nước thành sương, phản về diện mục lúc cha mẹ chưa sinh ra mới thôi. Vậy nên, Đan kinh tử thư, trước tiên coi an Lô lập Đỉnh là bước thứ nhất.
Dương Toại Phương Chư
Dương Toại cách xa so với mặt trời, không biết là bao nhiêu vạn dặm, mà có thể lấy lửa trong mặt trời; Phương Chư cách xa so với mặt trăng, không biết là bao nhiêu vạn dặm, mà có thể lấy nước trong mặt trăng; đó là vì Khí của Dương Toại Phương Chư là đồng loại với mặt trăng mặt trời.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo chiêu nhiếp Âm Dương vậy. Âm Dương của thân người vốn là hòa hợp Nhất Khí, chỉ vì giao với Hậu Thiên, mà Âm Dương rời nhau, mỗi thứ một nơi, Sinh Khí dần tiêu, Tử Khí dần trưởng, tiêu rồi lại tiêu, trưởng rồi lại trưởng, đến hết mới thôi. Nếu biết hồi quang phản chiếu, mượn giả tu chân, thì trong khoảnh khắc, Âm Dương không mong giao mà tự giao, không mong hợp mà tự hợp, tự nhiên nhi nhiên, không cần miễn cưỡng. Kẻ mê thì cách xa ngàn dặm, chỉ tại người có thể hạ quyết tâm.
Khương lang sư thú - Bọ hung sư tử
Bọ hung vê viên đất, sư tử lăn quả cầu, lâu ngày trong viên đất sinh ra con, trong quả cầu xuất ra sư tử. Viên đất và quả cầu nguyên là vật chết, bên trong chẳng có gì cả, đấy là hình không giao mà thần giao, để hai Khí thư hùng cảm thông, một ý không tán, thì Thần ngưng Khí kết, mà có thể vô chất sinh chất, vô hình sinh hình.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo vô trung sinh hữu vậy. Con người bẩm thụ hai Khí Âm Dương của trời đất mà sinh, trong thân có hai Khí Âm Dương đó. Con người có thể vận Dương tựu Âm, để Âm thuận Dương, Âm Dương đoàn tụ, thì đột nhiên trong yểu minh có một điểm Sinh Cơ, từ vô mà hữu, có thể kết Thánh Thai, có thể sinh Pháp Thân, công lực đến nơi, đả phá hư không, thân ngoại hữu thân, bước vào nhật nguyệt mà vô hình, đi vào kim thạch mà không trở ngại, siêu xuất ra ngoài tạo hóa vậy!
Hắc Diên Thủy Ngân - Chì đen và thủy ngân
Trong thuật Lô Hỏa, Thủy Ngân gặp lửa thì bay, nếu được Hắc Diên trộn lẫn thì Thủy Ngân bị chế, thì kết thành khối mà không bay.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo dùng Dương chế Âm vậy. Nhân Tâm dễ động, xuất nhập vô thời, chẳng biết gốc ở đâu, gặp cảnh thì sinh tình, theo gió thổi bụi, như Thủy Ngân gặp lửa thì bay vậy. Nếu Đạo Tâm thường tồn, phòng nguy lự hiểm, tùy thời mà suy xét, thì Nhân Tâm chẳng có chỗ hở nào mà sinh, như Thủy Ngân gặp Chì thì ngưng kết. Tiếp tục thêm cần cù công phu tăng giảm, tăng cái Dương Khí của Đạo Tâm, giảm cái Âm Khí của Nhân Tâm, tăng rồi lại tăng, giảm rồi lại giảm, đến mức không còn gì để tăng giảm, thì Nhân Tâm chết mà Đạo Tâm kiên cố. Chân Chủng đến tay, có thể làm thánh, có thể làm hiền, có thể thành tiên, có thể thành phật, mà gốc lớn của Tính Mệnh đã lập vậy. Sau đó làm tiếp sự nghiệp cao hơn, thì chưa có ai là không thâm tạo tự đắc vậy.
Lộng ảnh vũ tượng – Đùa hình gạt tượng
Trẻ nhỏ đùa với bóng, tự coi là vui, không biết là đùa với hình bóng, thì uổng phí tinh thần, cuồng phu đùa với tượng, tự coi là giỏi, không biết là đùa với tượng, thì uổng mệt môi lưỡi.
Ta xem điều đó, nên ngộ ra Đạo tránh họa tạo phúc vậy. Người đời tham đồ không chán, mưu lợi mà đắc lợi, cầu danh mà đắc danh, thì tự cho là đủ để dưỡng thân vinh thân vậy. Thật không biết ngày đêm lao tâm, phí Tinh hao Thần, vì Giả mà làm bị thương Chân, có lúc khí huyết suy bại, đại hạn mà đến, thì có tiền tài mà không mua được việc sống chết, có chống cũng không nổi Vô Thường. Chỉ có lúc chết thì tội nghiệp đi theo, kiếp sau lại thụ báo ứng. Với việc trẻ nhỏ đùa với bóng, cuồng phu đùa với tượng có khác gì? Nếu là bậc minh triết thượng sĩ, riêng có cao kiến, coi Tính Mệnh là trọng, coi Đạo Đức là quý, cúi nhìn tất cả, tiếc Khí dưỡng Thần, tuyệt không để Giả làm bị thương Chân, thì dù Âm Dương tạo hóa cũng không thể thiên di, huống gì điều khác!
Chủng thử chủng ma - Gieo kê gieo vừng
Gieo kê thì được kê, gieo vừng thì được vừng. Vừng không thành kê, kê không thành vừng, vì khác giống vậy.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo gieo nhân quả vậy. Một niệm của người là thiện, thì cái mình làm cũng thiện, tất thụ được phúc; một niệm là ác, thì cái mình làm cũng ác, tất rước họa. Niệm thiện niệm ác là nguyên nhân của sự việc, mà thụ phúc rước họa là kết quả của sự việc. Có nhân tất có quả, chưa có chuyện gieo thiện mà quả không thiện, chưa có chuyện gieo ác mà quả không ác, sự báo của thiện ác, như bóng theo hình, nhất định không sai, chỉ tại việc gieo thiện gieo ác mà phân biệt tốt xấu. Nên bậc quân tử lo việc ngay từ lúc bắt đầu, cẩn thận ngay từ đầu, tự có thể toàn vẹn đến cuối.
Tiếp đào tiếp hạnh - Nối đào nối hạnh
Cây đào già nối thêm cành non, thì lại kết thành đào; cây hạnh già nối thêm cành non, thì lại kết thành hạnh. Đó là vì cây tuy già, nhưng Khí căn bản là chưa tuyệt vậy.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo tiếp nối cho người già. Người ta già đều do mặc tình phóng dục, trăm điều lo nghĩ xúc cảm vào tâm, vạn sự làm lao nhọc hình hài, phí Tinh hao Thần, lấy Giả làm Chân, lấy khổ làm vui, một điểm Sinh Cơ chặt đốn hết sạch, Tính loạn Mệnh dao, căn bản chẳng vững, vì thế trai tráng rồi già, già rồi chết, không thể đổ cho trời, thật tự mình chuốc lấy mà thôi. Nếu người ta tự biết hối hận, cải đầu hoán diện, chặt đứt ân ái trói buộc, rời xa tửu sắc tài khí, xem phú quý như phù vân, coi thế lợi như kẻ thù, vạn hữu giai không, ngàn thứ chẳng chấp, chuyên khí như trẻ nhỏ, giữ quy củ như trinh nữ, giữ Tinh dưỡng Thần, bỏ vọng quy chân, luôn luôn bồi dưỡng căn bản, bước bước đều hành trì tại chính đạo, tăng chính niệm, giảm vọng niệm, nội ngoại chân thành, thuần là Thiên Lí, có thể tận Tính, có thể lập Mệnh, có thể phản lão, có thể hoàn đồng. Đó là phép dùng cành non nối cây già vậy. Cổ tiên nói: “Bẩy mươi tám mươi tuổi, nếu còn một hơi thở, thì còn có thể hoàn Đan”. Thật chẳng phải nói suông!
Phát hóa thủy xà - Tóc hóa rắn nước
Tóc rụng xuống rãnh nước, mặt trời nóng chiếu lên nó, thì hóa thành hình rắn, sao lại vậy? Vì tóc tuy là vật chết, mà được độ ẩm của nước, được sức nóng của mặt trời, ẩm và nóng tụ lại, ngưng thành Nhất Khí, ở trong yểu minh, có một điểm Sinh Cơ, mịt mù hòa hợp hoạt động, nên có thể hóa thành rắn. Ngoằn ngoèo dao động ở trong nước.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo cố bản ngưng Mệnh vậy. Dương Khí của con người thuộc Hỏa, Âm Khí thuộc Thủy, Âm Dương hòa hợp, thì Khí của Thủy Hỏa giúp nhau. Bên trong có một điểm Sinh Cơ, từ bé thành to rõ, sinh hóa không ngừng, cái suy có thể vượng, cái nhược có thể cường, người không Mệnh có thể ngưng Mệnh, người không thọ có thể kéo dài thọ, đây là Đạo thâm căn cố đế, trường sinh cửu thị vậy.
Hạc thai Quy tức - Thai của Hạc, hơi thở của Rùa
Hạc giỏi tồn Thần, nên thai kiên cố mà ngàn năm trường sinh; Rùa giỏi dưỡng Khí, nên không ăn mà trăm năm không chết.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo diên niên ích thọ vậy. Con người mà có thể tự khiêm tự hạ, nhu nhược phác thành, không hao Khí mà thường dưỡng Khí, thì Khí đủ; con người nếu có thể vô tư vô lự, ít ham muốn ít mưu lự, không lao Thần mà thường tồn Thần, thì Thần toàn vẹn. Khí đủ Thần toàn vẹn, thì căn bản kiên cố, nền móng vững vàng, lâu mà chẳng suy, diên niên ích thọ, lí này là chắc chắn. Hạc Rùa kia, một thì toàn Thần, một thì toàn Khí, còn có thể trường sinh, huống gì Thần Khí kiêm toàn, sao có thể không trường sinh?
Thủy đống băng tiêu - Nước đông và băng tan
Nước gặp lạnh thì đông thành băng, băng gặp nhiệt thì hóa thành nước.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo thành Thánh thành phàm vậy. Nhân chi sơ, tính bản thiện, nguyên không phân ra thánh hay phàm; vì tích lũy tập khí, mà có phân biệt phàm thánh. Người tích tập điều thiện, không mất đi Thiên Phú Chi Tính giả, thì thành Thánh; người tích tập điều bất thiện, mất đi Thiên Phú Chi Tính, thì thành phàm. Nếu người bất thiện biết sửa đổi thành thiện, bỏ tà quy chính, tích tập điều thiện, khôi phục lại Thiên Phú Chi Tính, thì tuy phàm cũng thành Thánh; nếu người vốn thiện không biết giới cẩn khủng cụ, tùy gió thổi bụi, tích tập điều bất thiện, mê mờ Thiên Phú Chi Tính thì là Thánh cũng thành phàm. Thiện như nước vậy, bất thiện như băng vậy. Thánh có thể thành phàm, phàm có thể thành Thánh, cũng như nước có thể thành băng, băng có thể hóa nước. Nên Đạo của [Đại học], tại rõ được Đức sáng, tại đạt đến được chí thiện.
Mộc mậu thủy trường – Cây tốt tươi, nước chảy dài
Rễ cây mà sâu chắc thì lá tự tốt tươi, nguồn nước xa thì dòng chảy càng dài, đó là vì có gốc vậy.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo hộ trì căn bản. Nguyên Tinh, Nguyên Khí, Nguyên Thần của thân người, là căn nguyên của Tính Mệnh. Nguyên Tinh không hao tổn thì hình toàn vẹn, Nguyên Khí không bị thương thì Mệnh kiên cố, Nguyên Thần không mờ tối thì Tính sáng láng. Hình toàn vẹn, Mệnh kiên cố, Tính sáng láng, thì vạn vật không thể thay đổi, tạo hóa không thể câu giữ, Tính Mệnh là do ta mà chẳng do trời. Cũng như gốc rễ của cây mà sâu chắc thì lá tươi tốt, nguồn nước xa thì dòng chảy dài, gốc lập Đạo sinh, Sinh Cơ thường tồn và không dừng vậy. Nhưng phần lớn người ta không biết hộ trì căn nguyên, mà lại tác động vào cành ngọn, vọng tưởng thành đạo, như leo cây tìm cá, cuối cùng tất lạc không, há chẳng ngu sao!
Tùng tâm trúc tiết – Lõi cây tùng và đốt cây trúc
Lõi cây tùng thì đặc, đốt cây trúc thì kiên cố, nên gặp mùa đông lạnh mà không điêu tàn, dầm tuyết sương mà tốt tươi dài lâu.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo tu trì lập Mệnh. Người mà có thể không thẹn không hổ , chủ kính tồn thành, đại đồng vô ngã, thì Tâm thật. Tâm thật thì phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, lâm sự không ngại sợ, gặp khó không ưu sầu; cát hung phúc họa cùng cảnh ngộ là chỗ khác, còn tạo Mệnh là tại ta. Con người có thể giữ thân chế sự, chỉ vu kì sở, lập bất dịch phương , thì Tiết kiên cố. Tiết kiên cố thì không làm điều phi lễ, không làm điều trái đạo, không thi hành điều phi nghĩa; có thể đắng có thể ngọt, có thể lên có thể xuống, có thể sinh có thể tử; thường ứng thường tĩnh, không bị vật làm thay đổi. Tâm thật Tiết kiên, có thể đối xử bình dị, có thể giải quyết nguy hiểm; có thể động, có thể tĩnh; có thể biến thông không trở ngại, vuông tròn chẳng vướng; tung hoành ngược xuôi, chẳng gì che được vậy.
Mộc thán phôi chuyên - Than củi và gạch nung
Cành gỗ phơi ra, lâu ngày thì hủ nát, qua lửa nung thì thành than, thì ngàn năm chẳng tổn. Nước đất trộn mà chưa nung, nếu dầm mưa thì liền bị phá, trải qua lửa nung thì thành gạch, mà vạn năm trường tồn.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo rèn luyện của tu chân. Con người không thể thành Đạo, vì là chưa rèn luyện trong Đại Tạo Lô; nếu trong Đại Tạo Lô, bước nào cũng cước đạp thật địa, mọi việc đều tự mình xông vào trải nghiệm, tại chỗ quan trọng sinh tử, bất động bất dao, như Chân Kim càng luyện càng sáng, như bảo kính càng mài càng sáng, mài luyện đến tròn trịa, sáng láng, trong văn vắt, đỏ rừng rực, hữu vô đều chẳng lập, vật ngã tất quy không, hình thần câu diệu, hợp chân với Đạo, cũng như than gỗ gạch nung, trải qua lửa rèn thành, vĩnh cửu không thể thương tổn vậy.
Thi nhục thi phát – Thịt và tóc người chết
Thi hài chôn lâu, thịt mà không hóa, thì thành Tà Sùng mà làm bị thương người; tóc người chết để lộ lâu, ẩm nóng hun đúc, thì thành Quỷ Hỏa mà làm mê người.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo thoát li đại họa. Trong ngoài trên dưới thân người, không vật gì không là Tà Sùng Quỷ Mị. Ngoài thì bọn nhãn, tị, khẩu, thiệt, thân mà chiêu khách tà; trong thì tâm, can, tì, phế, thận cùng nhau mà khởi vọng niệm, nội ngoại giao công, làm hỏng Thiên Chân, không chỉ khuynh tang Tính Mệnh không thôi, mà còn làm bị thương người làm mê người, còn phải nói sao? Lão tổ nói: “Ta sở dĩ có đại họa là vì ta có thân; nếu ta không có thân, thì họa từ đâu tới được?”. Có thể biết thân này là đại họa của ta, nếu có thể thoát khỏi họa này, tự chẳng còn tai họa gì nữa. Không còn họa, mới là Chân Ngã. Đạo bỏ họa đi, đầu tiên cần nhận được Chân Ngã. Nhận được Chân Ngã, mới biết thân này là người khác, người khác với ta hai thứ chẳng liên quan, dùng ta đuổi nó đi, dễ như lật bàn tay, tuyệt không phí lực. Sao mà người tu đạo, phần nhiều coi nó là ta, coi họa là chân, yêu luyến nó, coi quỷ là hàng xóm, mà chẳng chịu bỏ đi. Còn có một dạng người ngu, ở cái vật đại họa, làm loạn lung tung, thái hạ bổ thượng, thôi tiền vận hậu, vọng tưởng thành đạo. Cái bọn đó, đều là coi tớ là chủ, nhận giặc làm con, không chỉ không thể bỏ được họa, mà con làm tăng họa, chẳng lạ là một đời lận đận vất vả, mà cuối cùng lại lạc không vong vậy.
Thủy thượng hỏa hạ - Nước trên lửa dưới
Nước vốn lạnh, lửa vốn nóng, lửa trên nước dưới, nước lửa ở hai chỗ khác nhau, đây đó không thể kí tế. Nếu nước ở trên mà lửa ở dưới, thì cái nóng không bốc lên quá, cái lạnh có thể ấm.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo li hợp của Âm Dương. Dương Khí của con người là cương, cương mà không có gì khống chế thì quá nóng, như lửa ở bên trên vậy; Âm Khí là nhu, nhu mà không có ai giúp thì quá yếu, như nước ở bên dưới. Cương nhu không giúp nhau thì cô Âm bất sinh, độc Dương bất trưởng, Sinh Khí ngừng lại vậy. Nếu cương mà không nóng, dùng nhu vận cương, như lửa ở bên dưới; nhu mà không yếu, dùng cương giúp nhu, như nước ở bên trên vậy. Cương nhu đắc trung, thì Âm Dương hòa bình, Tính Tình hỗn hợp, Thủy Hỏa tương tế, gọi là “Khảm Li điên đảo” vậy.
Qua quả tử nhân - Hột và nhân quả dưa
Trong quả dưa có hạt, trong hạt có nhân; nhân đó có hai múi, trong múi lại có một tâm, tâm đó có một điểm Sinh Cơ, quả dưa sinh thành đều là do đó, đó là “Thiên Địa Chi Tâm” vậy.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo Âm Dương Sinh Cơ. Âm Dương hợp nhau mới có nhân, có nhân là bao hàm Thiên Địa Chi Tâm; Âm Dương không hợp thì không có nhân, không có nhân thì không có Thiên Địa Chi Tâm. Thiên Địa Chi Tâm, là gốc của sinh hóa; người đắc được tâm đó thì thành thánh thành hiền, thành phật thành tiên; người mất tâm đó thì thành người thành thú, thành quỷ thành ma. Có tâm này hay không có tâm này, là ở việc Âm Dương li hay hợp vậy. Người học nếu có thể điều hòa Âm Dương, không thiên không lệch, quay về trung chính, thì lại thấy Thiên Địa Chi Tâm; thuận tay bắt lấy, mạch lạc rõ ràng, tin chân mà bước, bước bước đều là Chân, mà then chốt của tạo hóa, là ở trong tay ta.
Hỗn thủy cấu kính - Nước đục và kính bẩn
Nước bẩn vốn nặng đục, lắng đi thì trong; kính bẩn vốn mờ, lau mài đi thì sáng.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo minh tâm kiến tính. Tâm người không trong, Tính bất định thì tham sân si ái cái gì cũng có, hỉ nộ ai lạc, việc việc đều còn; lịch kiếp căn trần thêm vào, rồi tích tập khách khí, mê hoặc tâm anh, bịt mất Linh Khiếu, như nước đục, như kính bẩn; bản lai Chân Tâm Chân Tính, hoàn toàn mê mờ, để mặc Tam Thi nhiễu loạn, Lục Tặc điên cuồng, không trần gì là không nhiễm, không vật gì không nạp, trong lòng ô uế, không nói được vậy. Nếu có thể đốn ngộ hồi đầu, quét bụi lau bẩn, đem đủ thứ thiên bệnh khách khí, từ lúc sinh ra đến nay, đủ loại vọng niệm tà hành, dần dần mài luyện đi, càng lâu càng gắng, mài luyện đến lúc không còn gì có thể mài luyện, khoáng tận kim thuần, bản tâm bản tính, tự nhiên hiện hết, Tuệ Quang liền sinh, thì chiếu thấy tam thiên thế giới, như trên bàn tay, tuyệt không có gì che phủ ngăn trở; như nước đục lắng lại trong, kính mờ mài mà lại sáng, mà bản tính còn nguyên không hao tổn.
Động nhiệt tĩnh hàn - Động nóng tĩnh lạnh
Phàm con người hành động thì sinh nóng, tĩnh tọa thì sinh lạnh; lạnh mà hành động thì lại sinh nóng, nóng mà tĩnh tọa thì lại sinh lạnh, vậy nóng lạnh chẳng do trời mà do người.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo trộm Âm Dương tạo hóa vậy. Cương thuộc Dương, Nhu thuộc Âm; Cương quá nóng mà biết tự khiêm tự hạ, thì tự không nóng, mà quay về hòa bình; Nhu quá yếu mà biết lập chí cường hành, thì tự không yếu, mà lên được chỗ cao minh. Có thể cương có thể nhu, thuận lí thuận thời, biết tiến biết thoái, có thể lớn có thể bé, có thể trên có thể dưới, có thể hư có thể thật, thì có thể đoạt tạo hóa, chuyển sinh sát, nghịch Khí Cơ, xuất tử tựu sinh; cũng như là hành động thì sinh nóng, tĩnh tọa thì sinh lạnh, con người mà cố gắng thì có thể hồi thiên vậy.
Cao đài đại thụ - Đài cao và cây lớn
Đài cao trăm thước, từ đất mà lên; đại thụ mười vòng ôm, từ chồi mà thành, chẳng phải một ngày một đêm mà được, được như vậy là phải dần dần.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo thâm tạo tự đắc. Công việc Tính Mệnh, là thiên hạ đệ nhất đại sự; bảo toàn Tính Mệnh, là thiên hạ đệ nhất nan sự; không phải dễ dàng mà thành, không phải có thể cầu mong nhẩy cóc; cần phải cước đạp thật địa, từng bước từng bước mà đi, từng việc từng việc trải qua; từ thấp lên cao, từ nông đến sâu; dần dần dụng công, không tính năm tháng; không giảm chí khí, cuối cùng tất đến chỗ đắc ý; tuyệt không được nấn ná qua ngày, nửa công phu đã ngừng, mà tự tìm phiền não. Đặc biệt vì là việc trải qua thời gian dài mà không thay đổi, nên phải kiên trì công phu liên tục không ngừng mới thành. Nếu như bắt đầu thì chăm chỉ mà cuối cùng lại lười nhác, hoặc vọng tưởng suông, mà muốn bảo toàn Tính Mệnh, mà thành được cái việc hiếm có trong thiên hạ, thì tuyệt không có cái lí này. Nên thánh nhân nói: “Con người mà không kiên trì dài lâu, thì không thể thành thầy thuốc thầy mo”, huống gì Tính Mệnh đại sự đây!
Oa thật đột tiêu – Chỗ trũng đầy lên, chỗ nhô lên thì tiêu đi
Chỗ trũng thấp lâu ngày thì tự đầy, chỗ nhô cao lâu ngày thì tự tiêu, vì cái hư là dấu hiệu của cái thật, cái cao là nguyên nhân của cái thấp.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo tổn ích hư thật. Người tự cao tự đại cậy tài cậy năng, cho mình là giỏi như thánh, thì nhiều người chán ghét, thường thường vì kiêu mà rước lấy sai lầm, cuối cùng tất rơi xuống thấp hơn người mà chẳng cao lên được, cũng như đất nhô lên lâu ngày, bị chân dẫm đạp lên mà tự tiêu vậy. Con người mà tự khiêm tự hạ, bỏ thông minh hủy trí xảo, hạ tâm hạ khí, thì người khác phần nhiều kính ái, luôn luôn hư tâm thụ ích, cuối cùng tiến đến cao hơn người mà chẳng thấp đi vậy, cũng như chỗ trũng thấp lâu ngày, tích bên trên mà tự đầy vậy. Nên bậc quân tử đạo càng cao thì tâm càng thấp, đức càng lớn thì tâm càng nhỏ, hoàn toàn không có ngạo khí, tính nóng hóa hết.
Lí ngư lão hồ - Cá chép và cáo già
Cá chép có thể hóa thành Vân Long, cáo già có thể hóa thành Vũ Nhân, đây đều là Thần toàn vẹn mà hình có thể biến hóa.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo thần thông biến hóa. Bọn cá và cáo đó đắc khí thiên lệch của trời đất, chăng qua là chỗ nương nhờ, hàm một chút linh vậy. Duy con người cũng là vạn vật chi linh, đắc Chính Khí của trời đất, Ngũ Hành đều toàn vẹn, Ngũ Đức có đủ, ở giữa Tam Tài, có toàn năng của trời đất; nếu có thể dưỡng Chính Khí của trời đất, giữ được Hòa Khí của Ngũ Hành, không nghiêng không lệch, Hồn Nhiên Nhất Khí lưu hành, là có tạo hóa của trời đất, có thể biến đổi mà thành thánh, hóa mà thành tiên, hình thần câu diệu, hợp chân với Đạo, mới là thiên biến vạn hóa, hóa hóa vô cùng, há chỉ hóa hình thôi sao!
Thần long biến hóa
Long là Linh Chiêu Chiêu, có thể lớn có thể bé, có thể lên có thể xuống, có thể ẩn có thể hiện, xuyên sơn phá thạch, đằng vân hành vũ, sao có thể như vậy? Đó là dùng Thần để vận.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo thần hóa bất trắc. Con người sở dĩ được làm người là vì Thần vậy. Thần tồn thì sống, Thần đi mất thì chết. Thần là vật thông thiên triệt để, đạt cổ tri kim; không chỗ nhỏ bé nào không vào được, không đâu không tồn tại; vào nước không chìm, vào lửa không cháy, vào kim thạch không trở ngại; lớn thì lượng lấp đầy vũ trụ, bé thì len vào sợi lông; nhìn nghe không thấy, vo tròn không được; không thể dùng lời để truyền, không thể dùng bút để mô tả; giỏi dùng nó, thì biến hóa tùy thời, có thể hợp đức với trời đất, hợp sáng với nhật nguyệt, hợp thứ tự với bốn mùa, hợp cát hung với quỷ thần; Tiên Thiên-trước trời mà trời không trách, Hậu Thiên-sau trời thì phụng thiên thời; cũng như thần long biến hóa, không thể dựa vào hình tích mà dòm được.
Khô mộc hàn hôi - Gỗ khô tro lạnh
Gỗ khô thì đốt không có ngọn, tro lạnh thì khêu mà không nóng.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo biến hóa khí chất. Con người bẩm thụ Khí Chất Chi Tính, gây hại rất lớn, hơi bị xúc phạm, thì nóng nảy chẳng sợ gì, thương thiên hại lí, đạp lên nước lửa mà không biết, rơi vào hang hố mà không hiểu, Tính Mệnh không kiên cố, chẳng quản sinh tử, cái họa này không chỉ một thôi đâu. Nếu có thể khắc kỉ phục lễ, phản cương thành nhu; quét sạch vạn loại sân hận phiền não, trừ khử hết lòng hiếu thắng; biến hóa Huyết Khí Bạo Táo Tính, quay về Ôn Hòa Bình Tĩnh Tính; chuyên khí trí nhu , hư tâm dưỡng thần; không ta không người, không đó không đây; viễn quán kì vật, vật vô kì vật, cận quán kì thân, thân vô kì thân; nội quán kì tâm, tâm vô kì tâm , vô thức vô tri, trống trống rỗng rỗng; cũng như gỗ khô bị đốt thì không có ngọn, tro lạnh mà khêu thì không nóng; có thể ở trong tạo hóa, mà không bị tạo hóa làm thay đổi; ở trong Âm Dương mà không bị Âm Dương trói buộc vậy.
Cận chu cận môi - Gần đỏ gần than
Vật ở gần màu đỏ, lâu ngày thì bị nhiễm màu đỏ mà thành hồng; vận ở gần than, lâu ngày thì bị nhiễm than mà thành đen.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo thiện ác tập nhiễm. Người ở gần người thiện, thì cái thường nghe là lời thiện, cái thường thấy là hành vi thiện. Thiện ngôn thiện hành, nghe nhìn vào tai mắt, lâu ngày thì gieo vào tâm địa, không cầu thiện mà tự tập được thiện vậy. Người ở cùng với người ác, thì cái thường nghe là lời ác, cái thường thấy là hành vi ác. Ác ngôn ác hành, nghe nhìn vào tai mắt, lâu ngày thì gieo vào tâm địa, không cầu ác mà tự tập thành ác vậy. Người thiện người ác, tuy nói là bẩm tỉnh như thế, mà quá nửa là do tích tập mà thành, nên bậc quân tử lúc ở phải chọn hàng xóm, giao du phải chọn bạn hữu.
Anh nhi thiên chân - Thiên Chân của trẻ nhỏ
Trẻ nhỏ mới sinh thì vô thức vô tri, tửu sắc tài khí chẳng dính, ân ái trói buộc tuyệt không; phú quý nghèo sang chẳng hiểu, nước lửa đao binh không hại; không có ngã tướng, không có nhân tướng; không có chúng sinh tướng, không có thọ giả tướng; vạn vật giai không, chư trần bất nhiễm; thiết diện vô tình, thuần nhiên là Thiên Chân.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo phản lão hoàn đồng. Con người có thể mãnh tỉnh hồi đầu, thoát li vạn hữu; cứ trú ở nơi vô sự, xử lí ở vô sắc giới; nhổ hết lịch kiếp căn trần, quét sạch hiện thế tập khí; buông bỏ mọi thứ, trống trống rỗng rỗng, thanh thanh tịnh tịnh; hình tuy già mà Tính lại phục sơ, bên ngoài tuy yếu mà bên trong thực khỏe, tức là phản lão hoàn đồng, tức là bản diện của trẻ thơ. Nếu không vậy, Thiên Chân mà hỏng, dù hình mạnh thể mập, cũng như lợn như trâu, có ích gì đâu!
Thác thược vận dụng – Vận dụng ống bễ
Ống bễ là vật hai đầu có lỗ thủng, trong lỗ có lưỡi, giữa trống rỗng mà thẳng cứng. Giữa trống rỗng là thể, thẳng cứng là dụng. Lỗ ở hai đầu là cửa ra vào. Hai lưỡi là cơ quan để đóng mở. Thẳng cứng mà qua lại, một thu một phóng, rỗng mà không co lại, động thì phong sinh, đóng mở tuần hoàn, tự nhiên nhi nhiên.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo thể dụng của tu chân. Con người có thể hư giữa làm thể, tâm thẳng làm dụng; vô tư vô dục, thiên lí lưu hành, thì cương nhu tương đương, động tĩnh thích hợp, cong thẳng đắc được trung, ẩn hiện tùy thời; có thể đồng Khí Cơ với hư không, đồng tạo hóa với trời đất; cũng như ống bễ giữa trống rỗng mà thẳng cứng, một đến một đi, hô hấp tự nhiên, Khí Cơ không dừng, sao có người không thể trường sinh được đây!
。
Đẩu Bính nguyệt kiến - Chuôi sao và nguyệt kiến
Bắc Đẩu Thất Tinh, bốn sao đầu tên là Khôi, ba sao ở đuôi tên là Cương, cũng gọi là Đẩu Bính. Chỗ Đẩu Bính chỉ đến thì cát, chỗ nó ngồi thì hung, nếu chỉ vào cung Dần thì nguyệt kiến Dần, chỉ vào cung Mão thì nguyệt kiến Mão. Một năm 12 lần di chuyển, thì thành 12 tháng, mà cái chỗ nó chỉ đến thì có vượng khí vậy.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo xoay chuyển Khí Cơ. Cương Khí của con người, như Cương Tinh trên trời, Cương Khí vận ở bên ngoài thì bên ngoài cát mà bên trong hung; Cương Khí vận ở bên trong thì bên trong cát mà bên ngoài hung; như chỗ Cương Tinh chỉ tới là cát, mà chỗ nó ngồi là hung. Từ lúc sinh ra đến nay, giao với Hậu Thiên, Cương Khí dùng hết ở bên ngoài, tranh thắng hiếu cường, nhận Giả bỏ Chân, Tam Bảo bên trong bị xấu đi, là Cát Khí tán ra bên ngoài, Hung Khí tụ ở bên trong, ngày tháng dài lâu, thì Dương tận Âm thuần, há có thể bất tử sao! Nên bậc chí nhân xoay chuyển Đẩu Bính, vận chuyển Khôi Cương; Cương Khí dùng ở bên trong, trảm Tam Thi, trừ Lục Tặc, tuyệt vạn duyên, quét bụi trần; không để cái Giả là bị thương cái Chân, không để bên ngoài động bên trong, thì Cát Khí dần sinh, Hung Khí dần tiêu; sinh rồi lại sinh, tiêu rồi lại tiêu; Cát Khí thuần mà Hung Khí hóa, chưa từng có ai không thể trường sinh vậy.
Điên hán túy nhân - Người điên và người say
Người điên nhảy tường, tuy ngã mà không bị thương; người say ngã xe, tuy đau mà không chết; lí do của việc đó là thế nào? Đó là vong hình mà không biết vậy.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo dưỡng sinh toàn hình. Cái mà con người ta dựa vào để sống là Tam Bảo Tinh, Khí, Thần vậy. Tam Bảo tụ thì sống, Tam Bảo tán thì chết. Muốn tụ Tam Bảo đầu tiên cần vô ngã; vô ngã thì tâm hư; tâm hư thì Tam Bảo không rò không rỉ, không tiêu không hao, chỉ có tăng mà không thể giảm; có tăng không có giảm, tăng rồi lại tăng, thì bên trong đầy; bên trong đầy thì Sinh Cơ không ngừng mà trường sinh. Người điên người say kia, chỉ mỗi vong hình, mà còn có thể không chết, huống gì Thần toàn Khí túc Tinh kiên cố, chưa có ai là không thể bảo vệ sự sống cả.
Đề cương đề lĩnh – Nâng cương nâng lĩnh
Chỉnh lưới phải nâng cương, xếp áo phải nâng lĩnh, đều là theo chỗ quan trọng mà hạ thủ.
Ta xem điều đó, bèn ngộ Đạo tu chân căn bản. Nhân Tâm là chủ của thân, là căn bản để thành thánh thành hiền, thành phật thành tiên; Tâm tĩnh thì vạn duyên đều lặng, Tâm động thì tạp niệm loạn sinh. Nếu có thể tâm vô nhất vật, trống trống rỗng rỗng; nội niệm bất xuất, ngoại vật chẳng nạp; thường ứng thường tĩnh, thường tĩnh thường ứng. Tuy hàng ngày ở tại nơi phồn hoa náo nhiệt, mà như gương sáng, như nước lắng trong; không bụi không sóng, tự không bị cảnh ngộ làm thay đổi, cũng như chỉnh lưới phải nâng cương, xếp áo phải nâng lĩnh, lúc trái lúc phải, không gì không thích hợp vậy.
Đào kim giản ngọc – Đãi vàng tìm ngọc
Đãi vàng trong cát, tìm ngọc trong đá, không thể thuận lợi mà được, cần phải khổ lực công thâm sau đó mới được.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo tiệm tu hữu vi. Tiên Thiên Chân Bảo, như vàng như ngọc; Hậu Thiên giả vật, như cát như đá. Hậu Thiên Giả Vật làm chôn vùi Tiên Thiên Chân Bảo, như cát đá chôn vùi vàng ngọc vậy. Nên muốn cầu cái Chân của Tiên Thiên, thì cần phải nhổ rút hết cái Giả của Hậu Thiên. Chân là Linh Căn của Tiên Thiên Nhất Khí; Giả là nghiệp chủng lịch kiếp vạn bàn, với Hậu Thiên Khí Chất Chi Tính, Ngũ Hành Chi Khí, tích tập mà thiên lệch. Để Nhất Chân bị chôn trong Vạn Giả, không thể dễ dàng mà được, cần phải dùng công phu tiệm tu, rút bỏ cái Giả, mới thấy cái Chân; rút rồi lại rút, rút đến lúc không còn gì có thể rút, cái Giả bị bỏ đi hết sạch, tự nhiên cái Chân sáng láng. Hiện lộ ra trước mắt, cũng như bỏ cát đá đi hết, mới thấy vàng ngọc. Đây là công phu khổ tận cam lai, thơm ra từ thối vậy.
Kết cao thủ thủy – Bánh xe lấy nước
Bánh xe lấy nước, cái gầu rỗng thì đi xuống, đầy thì đi lên, tuần hoàn vô cớ, lấy nước để tưới ruộng.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo hư thật lưỡng dụng. Con người có thể hư tâm mà khiêm hạ với người khác, thì tất thụ được ích lợi, ở trong đầy mà lên cao hơn người; càng rỗng càng khiêm hạ, càng đầy càng lên cao. Rỗng không ngừng, đầy không ngừng, khiêm hạ không ngừng, lên cao không ngừng; rỗng rồi đầy, đầy rồi rỗng, đi xuống mà lên, đi lên mà xuống; trên dưới thông nhau, đầy rỗng tương ứng, Đạo Đức đầy đủ, chưa có ai không thể lên được cảnh giới cao minh. [Dịch] nói: “Tốn tại sàng hạ, dụng sử vu phân nhược, cát ”. Đó là nói Đạo càng cao mà tâm càng khiêm hạ.
Thảo mộc hoa thật - Cây cỏ đơm hoa kết quả
Cây cỏ lúc bắt đầu khai hoa, sau đó kết quả, đều tùy theo thời, nên đắc trường sinh; nếu sai thời điểm, đó là điềm chết, cớ là phản lại lẽ thường vậy.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo thi hành theo thời. Cái mà sự sống của con người nương tựa vào là Thần Khí vậy. Việc đến không được không ứng, vật đến không được không tiếp; theo việc chế việc, tùy vật giao vật; cái chưa đến thì không đón, cái đã qua thì không lưu. Thần không bị thương mà Khí không bị hao tổn, như cây cỏ tùy thời đơm hoa kết quả, đấy là đạo dẫn đến sự sống vậy. Nếu tham tài hiếu sắc, đồ công tranh danh, ngày nghĩ mưu đêm tính toán, việc chưa đến đã dự mưu, việc đã qua chẳng chịu buông bỏ, Thần Khí tiêu hao, như cây cỏ đơm hoa kết quả sai thời, đấy là đạo dẫn đến chết vậy. Nên bậc quân tử quý trọng Tinh Thần như quý trọng bảo vật, dùng thì sáng mà không chói, tàng ẩn đi thì yên tĩnh mà không động; có thể thi hành thì thi hành, có thể ngừng thì ngừng, thi hành hay ngừng lại đều thích hợp, tuyệt không để cái Giả làm bị thương cái Chân.
Mộc ngẫu nê thai - Tượng gỗ và tượng đất
Tượng gỗ tượng đất, vốn là vật chết, nếu con người thành tâm cúng tế, thì lâu ngày sẽ linh ứng.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo khởi tử hồi sinh. Người đời coi Giả là Chân, coi khổ là vui; ngày thì lang thang trong nơi trần duyên, đêm thì nhập vào nơi mộng ảo; ngày làm đêm làm, toàn là tử lộ, tịnh không có sự sống; thân tuy động mà Tâm đã chết, hình tuy tồn mà Thần đã sớm suy; ngày lại ngày, năm lại năm; Dương Khí hóa hết, chỉ có Âm Khí, há có thể bất tử? Nếu biết được thế sự toàn là Giả, mãnh tỉnh hồi đầu; chuyên nhất thành thực không hai, vô tư vô lự; chỉ làm việc ở Tính Mệnh, giới thận khủng cụ, phòng vi đỗ tiệm ; lâu ngày công phu thâm hậu, Tâm tự minh, Thần tự linh, nội niệm bất khởi, ngoại vật bất nhập; có Chân không có Giả, là có thể động trời đất, phục quỷ thần; đoạt tạo hóa, thắng vạn vật; bình Địa Ngục, thượng Thiên Đường; khai Sinh Môn, bế Tử Hộ; diên niên ích thọ, lí này là chắc chắn.
Đăng quang chúc lượng - Ánh đèn ánh nến
Ánh sáng của đèn nến, chiếu ở trong phòng, thì trong phòng sáng mà nhà bên ngoài tối; chuyển ra nhà ngoài, thì nhà ngoài sáng mà trong phòng tối.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo dùng ánh sáng đúng sai. Con người thông minh trí tuệ, như ánh sáng của đèn nến. Nếu ánh sáng đó dùng nhầm ở bên ngoài, tranh thắng hiếu cường, đồ danh cầu lợi, ngày nghĩ mưu đêm tính toán, thiên tư vạn tưởng, dần vào Giả Cảnh, mê mất bản tông, sáng bên ngoài mà tối bên trong, chưa đến lúc thương thân tang mệnh thì không thôi. Nếu có bậc trượng phu biết bỏ Giả quy Chân, bỏ thông minh hủy trí xảo, coi Tính Mệnh là một đại sự, hồi quang phản chiếu, luyện kỉ giữ tâm, cúi nhìn toàn bộ, vạn hữu giai không, không bị ngoại vật làm thay đổi, không bị chư trần tạp nhiễm, sáng bên trong tối bên ngoài, có thể mong hiền mong thánh, thành phật thành tiên, rõ những chỗ tối tăm, tiến đến cao minh. Nên kinh nói: “Bậc đại trí thì như ngu, cực kỳ khéo thì như vụng”.
Khúc tửu mễ chúc - Men rượu và cháo gạo
Làm rượu phải dùng men, không có men thì không thành rượu; nấu cháo phải dùng gạo, không có gạo thì khó thành cháo. Đó là vì men vốn có Khí của rượu, nên có thể thành rượu; gạo nguyên là Tinh của Ngũ Cốc, nên có thể thành cháo, đó là vì mỗi thứ đều theo loại của mình.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo đồng loại nương nhau của Tính Mệnh vậy. Tính là Thiên Tính, không phải là Khí Chất Chi Tính, là Tính mà khí chất đều hóa; Mệnh là Thiên Mệnh, không phải là Yểu Thọ Chi Mệnh, là Yểu Thọ Bất Nhị Chi Mệnh . Người tu chân muốn tu Tính Mệnh, thì cần phải tìm hạt giống của Tính Mệnh, được hạt giống mà tu thì Tính Mệnh có thể liễu; nếu không được đúng hạt giống mà tu, thì ngược lại làm Tính Mệnh bị thương. Hạt giống này, bên ngoài thì không phải là toàn bộ các thứ như kim thạch, thảo mộc, tạp chất, bên trong thì không phải là toàn bộ các thứ như huyết mạch, tinh khí, tân dịch; vì các thứ vật hữu hình hữu tượng, không phải là một loại với Tính Mệnh của ta, làm sao mà liễu được Tính Mệnh? Cần phải biết Chân Chủng của Tính Mệnh này không phải là vật gì khác, chính là bản lai bẩm thụ Tiên Thiên Chân Nhất Chi Khí. Khí này nhìn nghe đều không thấy, tóm bắt không được; không thể cầu trong thân, không thể tìm ngoài thân; không rời thân này, lại không chấp vào thân này; tại nơi hoảng hốt yểu minh, ẩn tàng ở cảnh hư vô tịch liêu; hàm chứa thì là Chân Không, phát ra thì là Diệu Hữu; không thể dùng lời để truyền, không thể dùng bút để mô tả, miễn cưỡng vẽ ra, là cái này 〇 mà thôi; miễn cưỡng đặt tên, Nho gọi là “Thái Cực”, Phật gọi là “Viên Giác”, Đạo gọi là “Kim Đan”. Thái Cực, Viên Giác, Kim Đan, tên tuy có ba, mà chỉ là một vật, vật đó mới là Chân Chủng Tử của Tính Mệnh. Gọi là cùng lí tức là xét đến cùng Chân Chủng này; gọi là tận tính là làm toàn vẹn Chân Chủng này; gọi là trí mệnh là đạt đến Chân Chủng này. Biết Chân Chủng này, nghịch mà tu nó, dựa vào nó mà tu Tính thì Tính có thể sáng, dựa vào nó mà tu Mệnh thì Mệnh có thể lập. Nên [Tham Đồng] nói: “Đồng loại dễ thi công, khác giống khó mà làm”. Cũng như làm rượu phải dùng men, nấu cháo phải dùng gạo vậy.
Chung minh cổ hưởng - Tiếng chuông tiếng trống
Chuông được gõ thì kêu, trống được đánh thì phát tiếng; vì là bên ngoài thực mà bên trong hư, ở giữa trống không vô vật, nên có thể kêu có thể phát tiếng.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo chân không diệu hữu. Chân Không như là trống rỗng bên trong của chuông trống; Diệu Hữu như là chuông trống bị đánh mà phát âm thanh. Con người nếu giữ được Chân Không đó làm thể, vận Diệu Hữu đó làm dụng; thường tĩnh thường ứng, thường ứng thường tĩnh; tịch nhiên bất động, cảm động liền thông; cảm động liền thông, tịch mà bất động; Không mà chẳng Không, chẳng Không mà Không; linh linh thông thông, hoạt hoạt bát bát; ở trong Đại Tạo Lô, nhất nhất luyện độ quá khứ; bụi hết thì gương sáng, mây tan thì trăng hiện; lộ ra Kim Cương Bất Hoại Pháp Thân, siêu xuất ra ngoài Âm Dương tạo hóa, trường cửu cùng Thái Hư.
Khôi lỗi phong tranh - Bù nhìn và cánh diều
Bù nhìn có thể gật đầu ở ruộng, cánh diều có thể bay cao trên trời, là vì con người dùng dây buộc để lôi kéo.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo động tĩnh thần vận của thân người. Thân người như bù nhìn, như cánh diều là vật chết, Thần như là con người, Khí như dây buộc. Thần vận Khí thì toàn thân hoạt bát, có thể động có thể tĩnh, như con người dùng dây buộc lôi kéo bù nhìn, cánh diều. Thần vận Khí, Khí vận thân, vì thế có thể đi có thể dừng, có thể nói có thể bỏ đi. Người tu chân nếu biết được dùng Thần ngự Khí, dùng Khí dưỡng Thần, Thần Khí hỗn hợp, trong hoảng hốt yểu minh, có vật có tinh, Tinh đó rất Chân, thái nó mà uống, biến hóa vô cùng, mới là lôi kéo trời đất, há chỉ là lôi kéo ảo thân mà thôi sao!
Anh vũ thạch hầu - Vẹt và Khỉ
Vẹt được dạy có thể nói, khỉ được dạy có thể làm trò; bản tính thị phi cũng vậy, là người dần dần dạy dỗ mà biết.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo cầu sư phỏng hữu. Hai con vẹt và khỉ kia là loài cầm thú. Cầm thú được người dạy dỗ, còn có thể nói tiếng người, múa điệu múa của người, huống gì con người là vạn vật chi linh? Nếu được minh sư chỉ điểm, bạn tốt giúp đỡ, chưa từng có ai không thể tiến vào cảnh giới cao minh. Nếu biết bái minh sư, kết giao bạn tốt, thành tâm biện rõ nghĩa lí, nhờ những cái người khác biết, để khai phá cái vô tri của ta; nhờ cao kiến của người khác, để khai mở ngu kiến của ta; thì tuy ngu mà tất sẽ sáng, tuy mềm yếu mà tất sẽ kiên cường, sao không thể thành tiên? Sao không thể thành phật? Bọn người học vô tri ở thế gian kia, sư tâm tự dụng , nghị luận bừa bãi, tự tác thông minh, chẳng chịu hạ tâm hạ khí, tất sẽ tự làm hỏng tiền trình; tuy nói là khinh người, mà thực là tự khinh, mà xem Tính Mệnh đại sự là trò trẻ, chẳng lạ là vất vả một đời, mà đến già vẫn chẳng thành, thực đáng thương!
Du giáp tề mạch - Cây du, cây đậu, câu tật lê, cây lúa mạch
Tháng hai vạn vật phát mà cây du, cây đậu rụng, tháng tám vạn vật thu liễm mà cây tật lê, cây lúa mạch lại sinh; đây là hình tượng trong đức có hình, trong hình có đức.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo cùng dùng nhân nghĩa. Đức nhân là nhu đạo, chủ từ ái; đức nghĩa là cương đạo, chủ xét phạt. Độc có nhân mà không có nghĩa, thì là yêu mà không phân thị phi; độc có nghĩa mà không có nhân, thì xét xử tất dẫn đến hà khắc, hai điều đó đều là lạc khỏi trung đạo. Nhân nghĩa song hành, trong nhân có quả đoán, không bị thị phi lẫn lộn; trong nghĩa có quyền biến, không bị cố chấp bất thông; cũng như tháng hai cây du, cây đậu rụng, là trong đức tàng hình; tháng tám cây tật lê, cây lúa mạch lại sinh, là trong hình có đức, không lạc khỏi Đạo trung hòa vậy.
Tư thủy tư hỏa - Nghĩ đến nước, nghĩ đến lửa
Nóng thì nghĩ đến nước, uống nước thì giải nóng; lạnh thì nghĩ đến lửa, được lửa thì không lạnh.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo Âm Dương giúp nhau. Đạo thì cô Âm bất sinh, độc Dương bất trưởng; Dương cực thì dùng Âm tiếp, Âm cực thì dùng Dương nối; chẳng quá về Dương, không lệch về Âm, Âm Dương hòa bình, cương nhu tương đương, Hồn Nhiên Nhất Khí lưu hành, thì bản nguyên không hư hao, Sinh Cơ không dừng lại, Tính có thể tận, Mệnh có thể lập; không bị vạn vật làm thay đổi, không bị vạn sự làm liên lụy. Tại trần xuất trần, xử thế li thế vậy. Nếu không thì cô Âm độc Dương, Âm Dương riêng biệt, cương nhu chẳng bằng nhau, Sinh Cơ thì dừng lại, chẳng thấy lớn lên, mà dần dần hao tổn, hao rồi lại hao, đến lúc hết mà thôi.
Hướng nam hướng bắc
Hướng về nam thì lưng quay về bắc, thấy nam thì không thấy bắc vậy; hướng về bắc thì lưng quay về nam, thấy bắc thì không thấy nam vậy.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo thấy điều đúng thì cố làm. Nếu con người nhất tâm làm việc thiện, cái thấy là thiện, cái nghĩ là thiện, cái mình giao kết là thiện, cái mình thi hành là thiện, ngày dùng đêm làm, không gì không là thiện, chỉ biết có thiện, không biết có ác vậy; nếu nhất tâm làm ác, cái thấy là ác, cái nghĩ là ác, cái nói là ác, cái giao tiếp là ác, cái thi hành là ác, ngày dùng đêm làm, không gì không là ác, chỉ biết có ác, không biết có thiện vậy. Thấy thiện không thấy ác, thấy ác không thấy thiện, tà chính bất lưỡng lập, trung thần và gian thần chẳng cùng triều. Nên bậc quân tử thấy thiện như chẳng đủ, thấy không thiện như sờ canh nóng; giữ Đạo như giữ bảo vật, chí niệm chuyên nhất, bách chiết bất hồi, đến chết không thay đổi, chưa đến lúc thâm tạo tự đắc, thì công phu không ngừng.
Trảm thảo tài thụ - Nhổ cỏ, vun cây
Nhổ cỏ phải nhổ cả rễ, rễ không hết thì nó lại phục sinh; vun cây phải vun gốc, gốc không chắc thì cây sẽ khô.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo bỏ Giả tu Chân vậy. Tư dục tập khí của con người đều là Giả, Giả giống như cỏ vậy; Bản Tính Thiên Lương là Chân, Chân như cây vậy. Bỏ Giả thì phải đem toàn bộ tư dục tập khí gốc rễ nhổ sạch, mới không phục sinh, nếu hơi có một chút tạp chất còn lại, lâu ngày sẽ ngầm sinh, từ bé thành lớn, tác hại cực lớn. Tu chân cần phải luôn luôn chiếu ứng Thiên Chân nguyên bản cố hữu, khắc khắc vun bồi, Thần Thủy rót tưới, Chân Hỏa ôn dưỡng, không để động dao, đủ loại hộ trì, vạn dạng củng cố. Bồi dưỡng đến lúc căn bản kiên cố, Khí túc Thần toàn, mới có thể không bị vạn vật làm thay đổi, vạn sự làm liên lụy, các hậu hoạn hết cả vậy. Nên bỏ Giả phải đến lúc không còn chút Giả nào, như nhổ cỏ phải rút hết sạch gốc rễ; tu chân phải đến lúc không gì không Chân, như vun cây phải gốc vững sâu dày. Cổ kinh nói: “Một chút Âm Khí không tận thì không thể thành Tiên; một chút Dương Khí không tận thì không chết”. Đó là lời nói thật không phải nói suông.
Bình mãn bình bán - Bình đầy bình vơi
Nước đầy bình thì tràn ra ngoài, tràn thì có hao; nước trong bình vơi thì không rò rỉ, không rò rỉ là thường đủ.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo đầy rỗng họa phúc. Phàm người tự túc tự mãn, cậy tài cậy năng, biết tiến mà không biết thoái, biến cường mà không biết nhược, có ta chẳng có người, tâm cao khí ngạo, lâu thì sẽ chiêu họa, mà đầy thì chẳng có chỗ dùng; phàm người mà tự khiêm tự hạ, tha thứ và nhường nhịn người khác, không đầy không tràn, có công thì không khoe, có tài thì không kiêu, thường tìm lỗi của mình, tôn trọng người khác, biết đủ biết dừng, biết tiến biết thoái, cuối cùng sẽ được phúc, mà từ thấp lên cao. Nên nói “Khiêm hạ thì thụ ích, đầy thì bị hao tổn”, đầy chẳng quý bằng khiêm vậy.
Khí mãnh trang sức - Trang điểm cho bát đĩa
Các vật như bát đĩa, đều có riêng bản chất, nay vô cớ tạo tác, trang điểm ngũ sắc, nạm bằng vàng kim ngọc, tuy nói là trang nghiêm, thực là mất đi bản chất.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo phản phác quy thuần. Bản chất con người sinh ra, nguyên thuần bạch không tì vết; sau khi giao với Hậu Thiên, căn trần đều phát, tri thức đại khai; thêm vào tích tập tạp nhiễm, người thích rượu thì mê rượu, người hiếu sắc thì mê sắc, người thích tiền thì mê tiền, người thích khí thì mê khí, người thích phú quý thì mê phú quý, người thích du hí thì mê du hí; trăm mưu ngàn trí, để thỏa mãn lòng mình, lừa dối ám muội, mà thuận theo dục vọng; các việc mình làm, toàn theo đuổi điều Giả, coi khổ là vui, coi thạch tín là thuốc; nguyên lai bản chất, mai một hoàn toàn, thậm chí tang thân mất mệnh mà chẳng quan tâm, chiêu tai rước họa mà không biết. Nên cổ thánh dạy người minh thiện phục sơ, phản phác quy thuần, để hoàn lại bản lai diện mục. Hoàn lại bản lai diện mục, trong văn vắt, đỏ rừng rực, một chút chẳng nhiễm, thoát hết trần duyên, liền là thánh hiền phôi thai, là tiên phật chủng tử, gọi là Chân Nhân vậy.
Hữu hình hữu khí - Có hình có khí
Phàm là các vật hữu hình, có thành tất có bại; phàm các vật hữu khí, có sinh tất có tử, hình khí là lí do thành bại sinh tử.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo thoát li sinh tử. Con người thụ Khí của Hậu Thiên Ngũ Hành mà thành hình, trong hình thì tàng Khí của Ngũ Hành. Khí này ở trong thân người, phát ra thì thành Ngũ Tặc. Ngũ Tặc là hỉ, nộ, ai, lạc, dục. Ngũ Tặc giúp nhau thành băng đảng, bác tiêu Chân Nguyên, vì thế có sinh tất có tử. Bậc chí nhân hóa Hậu Thiên, phục lại Tiên Thiên; an thân ở trong hư không, tàng Thần ở cảnh tịch liêu; không phạm vào Khí của Ngũ Hành, không bị vạn vật làm thay đổi; không khói không lửa, như gỗ khô tro lạnh, vô sắc vô tượng, như hang trống thái hư; trời đất không thể câu thúc, tạo hóa không thể gò ép; đây là trộm Âm Dương, xoay Khí Cơ, mệnh do tự mình làm chủ, chẳng do trời làm chủ. Vì trời đất có thể sai khiến cái hữu hình, không thể sai khiến cái vô hình; có thể sai khiến cái hữu khí, không thể sai khiến cái vô khí; có thể sai khiến cái hữu tâm, không thể sai khiến cái vô tâm. Vô tâm thì vô khí, vô khí thì vô hình. Vô tâm, vô khí, vô hình, là hư không mà thôi. Trời đất làm gì được hư không? Cho đến sinh, tử, thành, bại, thì chỉ có thể sinh tử thành bại hình khí, há có thể sinh tử thành bại hư không?
Không cốc truyền thanh - Hang trống truyền âm
Trong hang trống, con người kêu gào, thì có âm thanh truyền, tục danh là Cốc Thần; vì nó có âm thanh mà vô hình, nên gọi là Thần của Hang.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo dưỡng thần trong hư vô. Con người có thể hư bên trong, là hang vậy; trong hư thì có một điểm Linh Khí, ám tàng bên trong, là Thần vậy. Là hang thì tịch nhiên bất động, cảm động liền thông, chỉ có hang thì có thể có Thần, không có hang thì không có Thần, cái diệu của Thần là ở Hang vậy.
Người đời thì tư dục tích khối, che lấp Linh Khiếu, ô uế đủ đường, sao có thể có Hang? Đã không có Hang, hôn mê đến cùng, như say như mộng, Linh Khí tiêu hết, sao có được Thần? Đã mất Thần, thì tuy sống mà như chết. Nếu có thể quét sạch vạn duyên, khơi thông đi cái úng tắc, thì trong văn vắt, đỏ rừng rực mà chẳng có gì sở hữu, tự nhiên trong Hang trống, hoảng hề hốt hề, có vật có tinh, Bất Thần Nhi Thần, kêu lên thì có âm thanh đáp lại, chí linh chí thánh, trải ra thì phủ lục hợp, co lại thì thoái tàng vào nơi bí mật, có thể trên dưới cùng loại với trời đất.
Đẳng xứng xích trượng - Cân và thước
Cân vật phải dùng cân, vật qua việc cân thì mới chuẩn được nặng nhẹ; đo vật phải dùng thước, vật qua việc đo thì mới biết ngắn dài.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo vận dụng Dược Vật Hỏa Hậu. Dược Vật là Âm Dương Nhị Khí; Hỏa Hậu là công trình tu trì. Trung chính không thiên lệch, như là cân thăng bằng vậy; tiến thoái thứ tự, như là thước vậy. Dùng phép trung chính không thiên lệch mà thái thủ Âm Dương Nhị Khí, nặng nhẹ tương đương, không nhiều không ít. Hai tám là một cân, Dược Vật đủ vậy; theo phép tiến thoái thứ tự mà vận dụng Hỏa Hậu công trình, ngắn dài tính thời gian, có tiến có thoái, thành công một mạch, thì đắc Hỏa Hậu vậy.
Nặng nhẹ của Dược Vật toàn ở trung chính; thứ tự của Hỏa Hậu, toàn ở tiến thoái. Biết trung biết chính, biết tiến biết thoái, Dược Vật đều Chân, Hỏa Hậu không sai, thì Đại Đạo dễ thành.
Ôi! Biết nhanh chậm, biện rõ cát hung, là ở việc thợ giỏi đắn đo suy tính; rõ tiến thoái, biết đủ dừng, há kẻ ngu muội có thể làm? Việc vận dụng Dược Vật Hỏa Hậu, há dễ biết sao!
Phiệt tử thuyên tăng - Bè gỗ và nơm đó
Qua sông phải dùng bè, qua sông rồi thì có thể bỏ bè; bắt cá phải dùng nơm, được cá thì nơm nên cất.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo dùng thuật kéo dài Mệnh. Thuật là pháp, là tu chân tác dụng pháp. Con người từ lúc Dương cực sinh Âm, dần đục Nhất Khiếu, Lục Tặc tác loạn, Ngũ Hành giết nhau; Tam Thi làm loạn ở bên trong, Thất Tình điên cuồng ở bên ngoài, đem Tiên Thiên Linh Căn, chặt dần tiêu dần, đến khi chết hết; nếu không có đại pháp để hàng Long phục Hổ, không có thợ giỏi xoay chuyển Đẩu Bính, thì làm sao tiêu diệt Tà Khí, làm sao phục toàn Chính Khí? Đó là lí do phải dùng pháp này.
Đại Đạo tự nhiên vô vi, sao phải dùng pháp ép làm? Sở dĩ phải dùng pháp này, là vì trừ đi cái tệ hại. Nếu mà đã trứ hết các tệ hại, thì pháp vô dụng, cũng như qua sông phải dùng bè, qua sông rồi thì có thể bỏ bè; bắt cá phải dùng nơm, được cá thì nơm nên cất; đây là ý nghĩa dùng pháp hay không dùng pháp. Cũng như dùng thuật kéo dài Mệnh, Mệnh đã kéo dài thì thuật chẳng dùng nữa vậy. Nhưng trước khi chưa kéo dài Mệnh, phải dùng thuật đoạt tạo hóa, nghịch Khí Cơ, hoán tinh di đẩu, mới có thể Tính Mệnh theo ta chẳng theo trời, siêu xuất ra ngoài Tam Giới Ngũ Hành vậy.
Trập trùng phục sinh - Trùng ngủ đông sống lại
Sau mùa thu bách trùng đều ngủ đông, đến mùa xuân thì phục sinh, gốc của sinh là ở ngủ đông.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo trong tử có sinh. Con người sở dĩ không được trường sinh, là vì không thể chết trước. Chết là chết Nhân Tâm. Quả tim bằng thịt, là thủ lĩnh của thất tình lục dục, ngũ tặc bát thức; thiên tà bách quái, đều được dẫn ra, hồ quần cẩu đảng, xâm thương Đạo Tâm; Nhân Tâm thường sinh, thì Đạo Tâm thường tử; Đạo Tâm tử thì Chính Khí tiêu, Tính Mệnh loạn dao, chưa có ai là không chết. Muốn sinh Đạo Tâm, đầu tiên cần làm chết Nhân Tâm. Nhân Tâm chết thì toàn bộ tặc đảng, như rắn không đầu mà tự diệt; diệt đến không còn gì để diệt, thì tự nhiên Đạo Tâm tự sinh, Chính Khí phục hoàn, đó là hôn ám lâu thì chiêu gọi ánh sáng, chết rồi lại sống, cũng như bách trùng đầu tiên ngủ đông mà sau đó sống lại.
Bạng châu kê noãn - Ngọc trai và trứng gà
Trai già hàm châu thì thành ngọc, gà mái ấp trứng thì sinh gà con, đó đều do Thần Khí bất tán mà được vậy.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo ôn dưỡng Thánh Thai. Thánh Thai là Thai của thánh nhân, là nguyên bản của đời ta. Nguyên bản phục hoàn, Thánh Thai ngưng kết, như trai có ngọc, như gà có trứng, chỉ chưa thành toàn vẹn mà sinh ra. Lúc này không được thi hành công phu hữu vi miễn cưỡng, chỉ cần nhất ý quy trung; không để nước khô, không để lửa lạnh; phòng nguy lự hiểm, phòng này lo này; từ non thành cứng, từ nhỏ thành to, tự nhiên có một hạt Thử Mễ Bảo Châu, từ Tạo Hóa Lô tràn ra; thông thiên triệt địa, tung hoành xuôi ngược chẳng gì che chắn, đồng thể cùng hư không; cũng như trai hàm châu mà Khí bất tán, gà ấp trứng mà Thần bất li; Hỏa Hậu đến ngày, ngọc tự thành, gà con tự xuất ra vậy.
Phượng hoàng khổng tước - Phượng hoàng và chim công
Phượng hoàng không dễ hiện, nên là điềm lành ở thế gian; chim công thường khoe múa, nên bị người săn bắt.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo hối minh cát hung. Sáng mà cậy tài cậy năng, tranh cường hiếu thắng, dụng tâm tư nơi con đường giả, thì thường chiêu gọi điều hung; tối mà bỏ thông minh hủy trí xảo, hư tâm tự hạ, dụng công phu ở chỗ thiết thân, thì thường được điều cát. Chiêu hung là dùng sáng ở bên ngoài; được cát là dùng sáng ở bên trong. Dùng ở bên ngoài thì nhận Giả mà mất Chân, tổn Tinh hao Thần, chạy vào Tử Lộ; dùng ở bên trong thì bỏ vọng mà tồn thành, giữ Tinh dưỡng sinh, quay về Sinh Môn. Hiểu rõ dùng bên ngoài dùng bên trong, cát hung liền nhau, sinh tử liên quan. Nên bậc quân tử tuyệt ngoại để trị nội, tiểu nhân vụ ngoại mà mất nội, cũng như phượng hoàng chim công ẩn hiện khác nhau, mà lấy cát gọi hung cũng khác. Đạo dùng sáng, có thể bất cẩn sao!
Ngộ đạo lục quyển hạ
Nhật trung nguyệt doanh - Mặt trời ban trưa và trăng tròn
Mặt trời ban trưa rồi sẽ xế, trăng tròn thì sẽ khuyết dần đi, đây là Âm Dương doanh hư tiêu trưởng tuần hoàn nhất định không sai.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo tu chân Văn Vũ Hỏa Hậu. Đương lúc bản nguyên chưa khôi phục, thì chiêu nhiếp Tiên Thiên, dũng mãnh tinh tiến, khiến nó sinh trưởng, để khôi phục bản nguyên; đến lúc bản nguyên khôi phục toàn vẹn, như mặt trời ban trưa, như trăng tròn, là Dương Khí đủ vậy. Dương đủ liền dùng Âm tiếp nó, lúc này, nhanh chóng dùng nhu đạo để ôn dưỡng, bỏ đi cái Khí cứng nóng, phòng cái họa nguy hiểm, giấu sáng dưỡng tối, nhất ý bất tán, gói kín chắc chắn, dùng một phần Âm, tàng một phần Dương, không để có chút nào rò rỉ; cũng như mặt trời ban trưa tất sẽ xế, trăng tròn tất sẽ khuyết, Dương Hỏa Âm Phù đều đạt; đổi thay hào tượng, cuối cùng lại quay về ban đầu, Dương Khí lại sinh, đó là Cương Kiện Thuần Túy Chi Tinh. Thánh Thai hoàn thành, riêng có trời đất, chẳng phải nhân gian, đây là Tiên Thiên trong Tiên Thiên. Lại thêm công phu cao hơn, một hạt lại một hạt, từ bé đến to, Thánh mà không thể biết sao là Thần vậy.
Thụy nhân tác mộng - Người ngủ nằm mơ
Người ngủ nằm mơ thấy cảnh hỉ, nộ, ai, lạc; thấy nơi phú, quý, danh, lợi; mộng là Giả mà nhận là Chân, không tự biết là mộng vậy.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo tu chân công lực nông sâu. Từ khi sinh ra đến nay, tửu, sắc, tài, khí làm mê tâm; tư, ái, tình, dục làm muội tính, trong ngoài toàn là Giả, hỏng hết cái Chân; người tu đạo nếu có chút nào tạp chất chưa thể hóa đi, dù Đại Đạo trước mắt, chưa chắc đã hoàn thành, chỉ vì họa căn còn chưa nhổ hết. Lấy gì ra chứng nghiệm? Chứng nghiệm trong mộng. Nếu nhập mộng cảnh, mà tửu, sắc, tài, khí không thể tạp nhiễm, ân, ái, tình, dục không thể dính, không động không dao, thanh thanh bạch bạch, sáng sáng rõ rõ, không bị cái Giả mê hoặc, mới là thấy cái Chân; nếu lại công thâm, thì toàn không có mộng, mới là rút hết mầm họa; nếu còn một chút mộng cảnh, là còn có một chút căn trần chưa hết. Nên nói bậc chí nhân thì không mộng. Người không có mộng là công lực cực cao; người có mộng là công lực chưa đủ. Có mộng mà ở trong mộng biết là mộng, thì công lực đã tiến; có mộng mà ở trong mộng không biết là mộng thì công lực toàn không. Nếu đạt đến công lực đã cực, tuyệt không chút mộng, thì tạo hóa tại tay, tuy ngủ mà như thức, tuy chết mà như sống. Chỉ là cái chết là Sắc Thân, cái sống là Pháp Thân, cái ngủ là mắt, cái tỉnh là Nguyên Thần.
Thương cổ mưu lợi - Buôn bán mưu lợi
Phàm buôn bán mưu lợi, đầu tiên cần chuẩn bị tư bản, tiếp đó cần người biết vận dụng; đã có tư bản, lại hiểu vận dụng, mới có thể thu hoạch lợi ích; nếu có tư bản mà không biết vận dụng, hoặc biết vận dụng mà thiếu tư bản, thì đều không được việc.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo pháp tài lưỡng dụng. Kẻ sĩ tu chân, tích đức lập hạnh, giữ Tinh dưỡng Thần, niệm niệm kiên cố, càng lâu càng cố, đến chết không đổi, thành tâm tác sự, như tích tiền tài. Cầu khẩu quyết của thầy, biết trước biết sau, biết tiến thoái, hiểu nhanh chậm, rõ cát hung, biết dừng đủ, tuần tự mà tiến. Dược Vật đắc Chân, Hỏa Hậu không tán, là có pháp vậy. Có tài có pháp, dùng tài để lập Đạo, dùng pháp để tu Đạo, pháp tài lưỡng dụng, bước bước thấy thành công, cuối cùng được đại thành; cũng như buôn bán có tư bản lại hiểu vận dụng, đâu đâu cũng có lợi lớn. Nếu như có tài mà không có pháp, hoặc có pháp mà không có tài, vọng tưởng nhảy cóc, muốn hướng ra trước, mà cuối cùng lại tụt ra sau, tuy Đại Đạo trước mắt, mà chưa chắc ta đã thành; cũng như buôn bán có tư bản, mà không hiểu vận dụng, hoặc hiểu vận dụng mà thiếu tư bản, cuối cùng không thể thu hoạch đại phú vậy. Nên kẻ sĩ chân chính tu đạo, đầu tiên cầu nơi ta, sau đó cầu nơi người, phải cần pháp tài kiêm toàn, mới không làm lỡ tiền trình.
Điên viên liệt mã - Vượn điên và ngựa bất kham
Vượn tính điên cuồng bất định, được buộc trói thì tùy người vận dụng, mà không thể phóng đãng; ngựa tính bất kham khó chế phục, được hàm thiếc và cương thì tùy người kéo lại, mà không thể chạy nhảy lung tung.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo chính tâm thành ý. Ngoan Tâm của con người, xuất nhập vô thời, chẳng biết ở đâu, như sự điên cuồng của con vượn, không có một chút ninh tĩnh; Vọng Ý của con người, khởi diệt vô thường, lúc đây lúc đó, như sự bất kham của ngựa, không dừng nghỉ chút nào. Ngoan Tâm Vọng Ý, hai cái đó kết băng đảng, bồi dưỡng nhân dục, làm ám muội Thiên Chân, Tính Mệnh do đó mà dần bị thương, thành họa rất lớn, thành hại rất lớn. Bước công phu đầu tiên của người tu hành là cần chính tâm thành ý. Tâm chính thì vạn hữu giai không, ý thành thì chư niệm chẳng khởi. Vạn hữu giai không, chư niệm chẳng khởi, dùng nó tu Tính thì Tính có thể sáng, dùng nó tu Mệnh thì Mệnh có thể lập. Nhưng cái học chính tâm thành ý, không dễ mà làm, tất phải thực sự hạ công phu, mới có thể xong việc. Công phu thực sự là tại thận độc . Thận độc là giữ cẩn thận kể cả cái không thấy, sợ cả cái không nghe thấy, thời thời giác chiếu, khắc khắc tỉnh sát, không để Ngoan Tâm Vọng Ý hơi có động ở trong nơi cơ mật, cũng như trói buộc vượn điên, giữ chặt ngựa bất kham, không để chúng phóng túng theo tính.
Cổ lai tiên chân, đều lấy tâm thí dụ vượn, ý thí dụ ngựa, thật thấy rằng tâm ý bất kham, cản trở Đại Đạo, mà không để thời khắc phóng túng. Người học nếu có thể chế ngoan tâm quay về chính, hóa vọng ý mà phục về thành, thì Đạo về Tính Mệnh, thựa liễu hơn nửa.
!
Nam nữ sinh dục – Nam nữ sinh đẻ
Nam nữ ở thế gian kết hợp, thì sinh con sinh cháu, đời đời nối tiếp. Nếu có nam mà không có nữ, có nữ mà không có nam, thì cô Âm bất sinh, độc Dương bất trưởng, Sinh Cơ dừng lại vậy.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo sinh tiên sinh phật. Con người lúc mới sinh, Âm Dương hòa hợp, Thánh Thai viên thành, đến lúc giao với Hậu Thiên, Âm Dương phân li, Thánh Thai bị thương vậy. Nếu là bậc Thượng Đức, căn cơ thâm hậu, nếu sớm gặp bậc chí nhân, không đợi Âm Dương phân li, liền tu vô vi chi đạo, lên thẳng Bỉ Ngạn, lập tức lên Thánh Vị; sau đó là kẻ trung hạ, Tiên Thiên Khí đủ thì Hậu Thiên Khí phát, Chân Âm Chân Dương xa cách nhau, đây đó chẳng giao, Sinh Cơ tiêu hóa tới hết, nếu đầu tiên không thi hành hữu vi chi đạo, điều hòa Âm Dương, sao có được Thánh Thai phục kết? Pháp điều hòa là khiến Âm Dương quy về Nhất Khí vậy. Chỉ vì Chân Dương lưu lạc bên ngoài, ở nhờ nhà khác, mê mà chẳng về, cần phải khổ tâm lao lực, không sợ lộ trình xa xăm, chậm rãi tỉ mỉ truy tìm; đến lúc gặp mặt, gọi cái là đến, dẫn về nhà ta, phối hợp với Chân Âm, vợ chồng gặp lại, phân ngoại tương thân, tự nhiên có một điểm Sinh Cơ từ trong hư vô tới, ngưng kết mà thành thai, ôn dưỡng 10 tháng, thân ngoại hữu thân; lại thêm ba năm công phu bú mớm, lúc tụ thì thành hình, lúc tán thì thành khí, ẩn hiện bất trắc, là tấm thân Kim Cương Bất Hoại vậy. Đạo với đạo nam nữ sinh người chẳng khác. Chỉ là phàm phụ phàm mẫu thì sinh Sắc Thân, linh phụ thánh mẫu thì Chân Thân. Một phàm một thánh, sinh tiên sinh người, trời đất cách xa. Tam Phong chân nhân nói: “Thuận thành phàm, nghịch thành tiên, chỉ ở trung gian điên đảo điên”. Điên đảo Thiên Cơ há dễ biết sao!
Kẻ mù mờ ở thế gian kia, dùng nam nữ điên đảo mà thì hành tà thuật thái thủ, chắc chắn là kết thành địa ngục chủng tử mà thôi, há có thể kết Thánh Thai!
Khai môn yết song - Mở cửa và mở cửa sổ
Cửa mở thì Khí thông, cửa sổ mở thì ánh sáng vào nhà; nếu cửa đóng thì trong ngoài không thông, cửa sổ đóng thì ánh sáng bị ngăn ở ngoài.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo đại cơ đại dụng. Kẻ tu đạo ở đời, nhập vào bàng môn đường rẽ, hoặc bế mục quán không, hoặc cô tịch thủ tĩnh, hoặc đả tọa tư thần, tự phụ là hữu đạo. Thực không biết Đạo là Đạo của tạo hóa trời đất Âm Dương. Là Đạo thì tản ra lục hợp mà không coi là nhiều, tụ thì thành Nhất Khí mà không coi là ít; phàm vật hữu tình vô tình trong vũ nội, vạn hữu bất tề , không gì không nhờ đó mà sinh thành; vật vật đều có, người người đều đủ, chỉ tại người ta ở trong Đạo mà không biết Đạo, như cá ở trong nước mà không biết nước vậy. Muốn tu Đạo này, cần phải làm việc trong trời đất Âm Dương tạo hóa, chứng nghiệm ở vạn vật vạn sự, hành trì ở trước ngàn người vạn người, mới là hoạt hoạt bát bát, tiêu tiêu sái sái, quang minh chính đại sự nghiệp. Há kẻ bế hộ tĩnh tọa, tịch diệt ngoan không có thể thành công sao! Muốn dùng bế hộ tĩnh tọa, tịch diệt ngoan không mà thành Đạo, thì cũng như đóng cửa và cửa sổ, trong ngoài không thông, đen thăm thẳm không thấy mặt trời, thì thành Đạo gì? Nếu nói thành Đạo, thì tất thành cái đạo đen tối vậy! [Ngộ chân] nói: “Tu hành hỗn tục với hòa quang, tròn thì tròn hề vuông thì vuông; sáng tối ngược xuôi người đâu biết, khiến người sao thấy được hành tàng”. Lại nói: “Cần biết đại ẩn cư triều thị, sao lại cô độc thủ tĩnh ở thâm sơn?”. Hỗn tục hòa quang, cư triều cư thị, mới là phấn đại dụng, phát đại cơ, chân tác dụng của tu trì Đại Đạo.
Môi phinh tác hợp – Mai mối tác hợp
Nam nữ thành hôn ở thế gian, không có mai mối thì không thể gặp nhau, mối là để thông thư tín giữa hai nhà, mai là để truyền những chi tiết tạm thời; nếu không có mối lái mà tự kết hôn, thì không phải là chính phối, mà là tư thông cẩu hợp, tất không trường cửu.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo hòa hợp tính tình. Tính thuộc bên trong, là nhà phía đông, là Âm; Tình thuộc bên ngoài, là nhà phía tây, là Dương. Tính Tình phân li, Âm Dương cách trở, như con gái nhà phía đông, con trai nhà phía tây, hai bên không gặp mặt. Nếu muốn đẩy Tình đến hợp Tính, dùng Âm phối Dương, mà không có Hoàng Bà tác thành, thì không thể về một nhà. Hoàng Bà là Chân Ý của ta, cũng gọi là Chân Tín. Tín có thể thông ta và người, Tín có thể điều hòa Âm Dương, là Đệ Nhất Chân Bảo của người tu đạo, bắt đầu kết thúc, hữu vi vô vi, thái Dược hành Hỏa, kết Đan thoát Đan, một chút khôgn thể rời vậy. [Ngộ chân] nói: “Li Khảm nếu còn không Mậu Kỉ, tuy hàm Tứ Tượng mà chẳng thành Đan; chỉ cần đây đó hoài Chân Thổ, liền khiến Kim Đan có phản hoàn”. Mậu Kỉ là Chân Tín trong Chân Ý. Mậu Tín là Ngoại Hoàng Bà, như mối vậy; Kỉ Tín là Nội Hoàng Bà, như mai vậy. Hai cái đó là Chân Mai Mối trong thân ta. Biết được mai mối này, dùng nó điều hòa Tính Tình, thì Tính Tình liền điều hòa; điều hòa Âm Dương, Âm Dương liền tụ hội. Hai nhà hợp thành một nhà, thì Kim Đan lờ mờ có hình tượng vậy.
Thực vật thường vị - Ăn và nếm
Phàm lúc ăn cần phải nhai chậm và kỹ, chua ngọt đắng cay, đắc vào tâm, mới có thể biết mùi vị; đã biết mùi vị, ngon miệng thì nuốt, chát miệng thì nhổ đi, hoặc giữ hoặc bỏ, toàn tự mình xét.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo cùng lí biện chân. Cái học về Tính Mệnh, cực kỳ u thâm, cực kỳ tinh tế, nếu biết mà không Chân, thì hành không thỏa đáng, không chỉ vô ích, mà còn có tổn hại. Nên đầu tiên phải cùng lí, cùng được một phần lí thì hành được một phần việc; cùng được mười phần lí, thì hành được mười phần việc; tận Tính chí Mệnh, toàn ở việc cùng lí mà định cao thấp. Phép cùng lí từ nông đến sâu, từ thô đến tinh, xong một tầng lại vào một tầng, xong rồi lại xong, vào rồi lại vào, thẳng đến lúc xong không có gì có thể xong, vào chỗ không thể vào, thấy được gốc rễ, nhận được bản nguyên, mới là cực công; cũng như lúc ăn nếm ra tư vị, sau đó mới nuốt. Nhưng tuy tự có hội ngộ, nếu như đúng mà sai, không tránh được lầm việc, cần phải tái chứng cao minh, khuếch sung kiến thức của ta, lấy cái đúng, bỏ cái sai, mới có thể xong việc. [Dịch] nói: “Cùng lí tận Tính cho đến Mệnh”. Cùng lí là xét đến cùng về cái lí tận Tính chí Mệnh. Còn không biết Tính là vật gì, Mệnh là việc gì, mà muốn liễu Tính liễu Mệnh, thì liễu được cái gì? Kẻ ngu trong Đạo kia, ngộ nhận Tính tại Tâm, Mệnh tại Thận; hoặc là Tính tại Thiên Cốc, Mệnh tại Đan Điền; hoặc thủ Thận để tu Mệnh, hoặc định Tâm để tu Tính; hoặc chấp ngoan không để tu Tính, hoặc hành thái thủ để tiếp Mệnh; hoặc Thần chờ ở cửa sổ để dưỡng Tính, hoặc phục thực Đan Dược để kéo dài Mệnh; đó là nghĩ về quả mơ để ngừng khát, nhéo mắt để sinh hoa, cuối cùng cũng không vong. Như các bọn đó, Tính Mệnh còn không biết, mà vọng tưởng liễu Tính Mệnh, há không ngu sao!
Thượng sơn độ hà - Lên núi, qua sông
Lên núi thì bước nào cũng phải xuất lực, không đến được đỉnh cao nhất, không được dừng chân; qua sông thì bước bước phải cẩn thận, không lên được bờ kia, thì không được chủ quan. Lên núi là sắp đến đỉnh, nếu hơi dừng chân một chút, còn ở nửa đường; qua sông sắp đến bờ kia, nếu một bước chủ quan, thì còn có nguy hiểm.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo thân thể lực hành. Ôi, chân sư khó gặp, Đại Đạo khó biết, may mắn gặp mà biết được, phải việc thật làm thật, thành tựu Đại Đạo, để báo ân thầy, mà không được có chút lười biếng nào.
Cái học về Tính Mệnh, là thiên hạ đệ nhất đại sự, cũng là thiên hạ đệ nhất nan sự, cần phải kiên tâm cố chí, không được thay đổi, sớm tối cẩn thận, càng lâu càng cố, sau đó mới xong; không được vì một chút ma chướng mà đổi chí, không được thấy một chút hiệu nghiệm mà lười nhác công phu, không được vì ăn mặc khó khăn mà phân tâm, không được vì lực lượng không đủ mà thoái chí, cũng không vọng tưởng thành tựu Đại Đạo, cũng không sợ đường dài xa xôi, kiên tâm tiến bước, mọi sự không quên, tiến lên phía trước, tự nhiên có ngày xuất đầu lộ diện. Cũng như lên núi thì bước nào cũng phải xuất lực, cuối cùng lên đến đỉnh núi; qua sông thì bước bước phải cẩn thận, cuối cùng tới bờ kia. Nếu không, sợ hãi rụt lại không tiến lên, hoặc mới đầu thì chăm cuối cùng lại lười, thì dù Đại Đạo trước mắt, chưa chắc đã thành; thử nghĩ xem từ lúc sinh ra đến nay, toàn thân trong ngoài, toàn là Âm Khí quấy nhiễu, tuy có một chút Dương Khí, lại ẩn đi chẳng thấy, nếu không lập chí đến chết không đổi, dùng đại lực của Kim Cương Thiết Hán, thì sao có thể hóa Âm phản Dương, lên vạn trượng cao sơn, xuất vô biên khổ hải.
Đăng nga khâu dẫn - Thiêu thân và giun đất
Thiêu thân xông vào đèn, thì tự nhẩy vào lửa mà chết; giun đất tìm nhiệt, mà tự phơi nắng chết; hai vật này đều thích sáng mà làm bị thương sinh mạng.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo xu cát tị hung. Thế nhân thuận theo cái dục, tranh danh đoạt lợi, tham tửu hiếu sắc, coi Giả là Chân, coi khổ là vui, ngày đêm vất vả, sáng tối ưu lự, phí Tinh hao Thần, chưa đến lúc tam thốn khí đoạn, thì không chịu ngừng tâm, giống như thiêu thân xông vào đèn mà thiêu thân, giun đất tìm nhiệt mà mất mạng, đó là Diêm Vương không gọi, mà tự đưa đi chết vậy. Nếu có tự biết mà tiếc Mệnh, mọi chỗ đều cúi mình kỉ tôn người, mọi sự tàng đầu thoái bộ; như cá bơi trong vực, rùa nhập vào bùn, chê mắng chẳng tới, họa phúc bất xâm; không cầu sinh mà tự sinh, không dẫn đến chết thì không có chết; đây là pháp tốt để xu cát tị hung. Sao mà người ngu coi ngoại vật làm trọng, coi Tính Mệnh là khinh, tự làm nhanh chết vậy.
Tàm ti phong mật - Tơ tằm và mật ong
Tằm nhả tơ, nguyên muốn hộ thân, không biết rằng người lấy tơ mà làm bị thương sự sống; ong làm mật, nguyên muốn dưỡng Mệnh, không biết rằng người lấy mật làm mất Mệnh. Hai vật này đều muốn bồi dưỡng sự sống, mà phản lại làm nhanh chết.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo lợi hại theo nhau. Con người đều sợ chết, sợ chết tức là có tâm cầu sinh. Đã có tâm cầu sinh, thì tất vì ăn vì mặc, hàng ngày ở trên con đường khúc khuỷu lao tâm khổ lực, tích trữ tiền và lương thực, để bồi đắp sự sống; với thường nhân tự cho là có thể bồi dưỡng sự sống, thật không biết là chưa đủ để bồi dưỡng sự sống, mà làm nhanh chết vậy. Làm thế nào để biết vậy? Phàm con người mà coi trọng cái tâm dưỡng sinh, thì coi khinh cái tâm bảo thân. Coi khinh cái tâm bảo thân thì đêm ngày lao khổ, tinh thần ngầm bị thương, khí huyết suy bại, mà đi vào tử lộ. Còn có một bọn không biết sống chết, bách bệnh lâm thân, triêu bất bảo tịch , không bỏ được ăn, không bỏ được mặc, càng già càng tham, đến chết không ngộ, mê muội đến cùng, so với tằm nhả tơ, ong làm mật, tự đưa đến chết có khác gì! Nếu là bậc đại trí tuệ, riêng có phép bảo sinh, không lưu tâm đến ăn mặc, không chú ý đến tiền bạc lợi danh; bỏ thế tài mà tích pháp tài, khinh sắc thân mà dưỡng chân thân; vạn vật khó thay đổi, lợi gì hại gì.
Tha gia tá chủng - Trồng nhờ nhà khác
Cái nông phu coi trọng hàng đầu là giống vậy. Có đất có giống, tự mình sẵn sàng, không đợi nhờ vả người khác. Còn như nhà nghèo khó, hoặc có đất mà thiếu giống, tất phải cầu người khác mới được việc.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo tu chân nhờ giống. Gọi là giống tức là Tiên Thiên Chân Nhất Chi Khí. Khí này mà thuận thì sinh người sinh vật, nghịch thì thành tiên thành phật, nên Đan kinh tử thư đều coi Khí này là Chân Chủng Tử để thành tiên phật. Chân Chủng vốn là người người đều đủ, ai ai cũng tròn vẹn, vì giao với Hậu Thiên, Âm Khí phát mà Dương Khí tiêu, Chân Chủng bị chôn dấu, tuyệt vô hình tích vậy. Kẻ hữu chí tuy có thể thanh tĩnh tâm địa, vạn duyên đều dừng, chẳng qua là một mảnh ruộng trống mà thôi, sao có thể qua được đói khát, cứu được Tính Mệnh? Nên việc nhờ Chân Chủng là không ngừng được.
Nhờ giống là dùng nhà ta cầu nhà kia. Nhà kia là người khác. Vật của nhà người khác mà muốn là của ta, thì không được dùng tay không để lấy, mà phải cần dùng lễ để cầu, khiêm hạ tâm khí, làm vui lòng kẻ kia, mới có thể mượn được Chân Chủng. Chân Chủng đến tay, tùy giống mà hiện mầm, dựng gậy thì thấy bóng , tuyệt không phí lực. Nếu không thì trong Đỉnh nếu không có Chân Chủng Tử, giống như đem nước lửa nấu nồi không, cuối cũng chẳng xong việc. Nhưng người ta nhận không ra Chân Chủng là vật gì, nhà kia ở chỗ nào, phần nhiều nhầm coi phụ nữ là nhà kia, mà thi hành thái thủ tà thuật, hoặc dùng mai tử thủ kinh phục thực ăn uống, ô uế trăm đường, há không đáng cười đáng than sao!
Ôi! Dược xuất Tây Nam là vị trí Khôn, muốn tới vị trí Khôn há được rời người, phân minh nói rõ anh nên nhớ, chỉ sợ tương phùng nhận chẳng Chân.
Quy tàng ngư tiềm - Rùa lẩn cá lặn
Rùa lẩn vào bùn thì vô hại, rời khỏi bùn thì bị người bắt; cá lặn dưới vực thì toàn hình, ra khỏi vực thì bị chim giết.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo thương sinh ích sinh. Phàm những người không thể ích sinh, mà luôn đi nhanh đến tử địa, là đều do không thể giấu sáng dưỡng tối, tự thị thông minh, hay dùng tài trí vậy. Thông minh tài trí, phân tâm loạn tính, thì Chính Khí dần tiêu, Tà Khí dần trưởng, Mệnh căn dao động, há có thể bất tử? Nên bậc chí nhân thì nội niệm bất sinh, ngoại vật bất nạp; hữu như vô, thật như hư, như ngu như ngố, sáng thì không dùng, ánh sáng không chói lóa; không để Giả làm thương Chân, không để bên ngoài nhiễu bên trong; cảm động sau đó ứng, bức bách sau đó khởi, bất đắc dĩ thì sau đó động. Tuy bên ngoài có ứng, mà bên trong chưa từng ứng, tuy thân có động, mà tâm chưa từng động; đón mà không thấy đầu, theo mà không thấy đuôi, tạo hóa còn không níu giữ được, sao có tai hại xâm phạm đây? Cũng như rùa vào bùn thì người khó bắt, cá lặn xuống vực thì chim không giết được.
Du hạc thán hóa - Dầu khô và than hóa
Dầu khô thì đèn tắt, không để khô mà lập tức thêm dầu, thì sinh trưởng bất diệt vậy; than tàn thì lửa ngừng, không đợi tàn mà tiếp tục thêm than, thì cháy suốt không ngừng vậy.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo tiếp Mệnh dưỡng sinh. Trời đất có đức hiếu sinh, chỉ mong người người trường sinh, không mong mọi người mau chết, chỉ vì người tự dẫn đến chết thôi, mà đổ cho số mệnh, há không ngu sao. Thử xem vạn vật mùa xuân thì sinh, mùa hạ thì trưởng, mùa thu thì sung túc, mùa đông thì tàng; đến mùa xuân lại sinh, đến mùa hạ lại trưởng, trường sinh bất tử, thuận theo thứ tự tự nhiên của bốn mùa, mà không bị bên ngoài tác động, nên có thể trường sinh. Chỉ có con người bẩm thụ Chính Khí của Âm Dương Ngũ Hành, mà không thể thuận theo tự nhiên, bị tập nhiễm bên ngoài, coi khổ là vui, coi độc là thuốc, tham vui thuận dục, làm hỏng căn bản, lâu thì Tinh Thần hao hết, Chân Linh tiêu diệt, cũng như dầu khô đèn tắt, than tàn lửa ngưng, chỉ đến chết mới thôi. Nếu là xuất thế trượng phu, coi Tính Mệnh là trọng, bảo hộ Tinh Thần như giữ vàng ngọc, tích Chân Linh như tích trân bảo; không đi lại trong vực lửa lớn, không xuất đầu tại chỗ thị phi, lúc lúc lưu tâm đến căn bản, suy nghĩ về đạo nghĩa; thận trọng bên trong, cẩn thận bên ngoài, trập Thần và tàng Khí; gọi là quân tử lo cái gốc, gốc lập thì Đạo sinh; cũng như lập tức thêm dầu thì đèn không tắt, tiếp tục thêm than thì lửa cháy thường xuyên, người vô mệnh có thể có mệnh, kẻ không sinh có thể trường sinh. Sinh hay tử, há có thể chỉ đổ cho trời?
Nê liên sương cúc - Sen trong bùn, cúc trong sương
Sen thì trống rỗng, cớ gì xuất ở bùn đen mà bên ngoài lại sạch; hoa cúc nở muộn, cớ gì gặp sương thu mà bên ngoài tươi tốt. Đó là vì rỗng giữa nên ngoại vật không thể nhiễm, hoa muộn nên Khí đủ mà chống được lạnh.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo tu nội ngự ngoại. Tạo hóa có thể trói buộc ta, vạn vật có thể thay đổi ta, tai họa có thể làm bị thương ta, chẳng phải thực tạo hóa có thể trói buộc, vạn vật thực có thể thay đổi, tai họa thực có thể làm bị thương, mà đều do ta thấy cảnh sinh tình, gặp vật sinh tâm, tùy gió khởi sóng, biết trước mà chẳng biết sau, biết cường mà không biết nhược, tự trói buộc, tự thay đổi, tự bị thương vậy. Nếu có thể vạn duyên không khởi, một niệm không sinh, thường thanh thường tĩnh, ngoại vật không thể nhập, khách khí không thể tạp nhiễm; cũng như sen nổi lên mặt nước, mà bụi bẩn không nhiễm; nếu có thể thu liễm tài trí, đại xảo nhược chuyết, đại trí nhược ngu , tàng hành hối tích, nhu nhược làm đầu, họa phúc không thể chạm, khen chê chẳng vướng vào, cũng như hoa cúc ba năm, mà trải sương chịu được lạnh. Người tu đạo, không thể coi thanh tĩnh nhu nhược làm gốc sao?
Đăng lung lô tráo - Chao đèn và che bếp
Đèn không có chao thì gặp gió sẽ tắt, nếu ở trong chao thì dù gặp gió cũng không tắt; bếp lò không có cái che thì bụi rơi thành bẩn, nếu có cái che thì dù bụi bay cũng không bẩn.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo hộ trì Linh Nguyên. Linh Tri của ta như đèn, như bếp lò; Chân Tri như cái chao, cái che. Linh Tri không được Chân Tri che chở, thì Thức Thần mượn Linh sinh vọng, gặp cảnh thì thay đổi, cái Giả chiếm quyền, cái Chân thoái vị, Tà Khí che mờ Chính Khí, như đèn tắt, như bếp bẩn, mất đi bản lai diện mục. Linh Tri nếu được Chân Tri phối hợp, dùng Chân Tri mà chế Linh Tri, để Linh Tri thuận theo Chân Tri, thì Thức Thần không có lí do để phát, Linh Khí không bay, căn bản kiên cố, tuy vào nước mà không chìm, vào lửa mà không cháy, toàn bộ ngoại lai khách tà, sao có thể làm bị thương được? Cũng như đèn có chao thì không tắt, bếp có cái che thì bụi bay mà không bẩn.
Vật viên vật phương - Vật vuông vật tròn
Phàm vật tròn thì Thể của nó hoạt động; vật vuông thì Thể của nó an tĩnh. Vật tròn không thể an tĩnh, vật vuông không thể hoạt động. Các vật này đều có tính chất riêng.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo dùng vuông dùng tròn. Tròn thì giữa tròn , giữa tròn thì tùy cơ ứng biến, có thể lên có thể xuống, có thể cao có thể thấp, có thể đi có thể dừng, không chấp vào một pháp; vuông thì giữa vuông, giữa vuông thì thị phi không lẫn lộn, chẳng quan tâm đến điều phi lễ, không thi hành điều phi nghĩa, không phải Đạo thì không làm. Bên trong có chủ tể, có thể tròn có thể vuông, tuần quy đạo củ đã không lạc vào cố chấp bất thông, lại không trôi theo việc thuận gió làm sóng; bên ngoài thì hoạt hoạt bát bát, bên trong thì vững vững vàng vàng; mượn thế pháp mà tu đạo pháp, theo nhân sự mà toàn Thiên Đạo; ở nơi lửa lớn trồng sen, ở nơi bùn lầy kéo thuyền; hiện ẩn tùy thời, hành tàng thích hợp; dù là trời đất thần minh, cũng không thể dò xét được, huống gì con người! Thế nhân kia có thể tròn thì không thể vuông, có thể vuông thì không thể tròn, giống như vật cố định vuông tròn, thích nghi ở chỗ này mà không thích nghi ở chỗ khác, thị phi lẫn lộn, tà chính bất phân, sao có thể thành được Đại Đạo? Nên người tu đạo phải vuông tròn kiêm đủ, mới là chân bản lĩnh mà đại tác đại dụng.
Oa phá úng lậu - Nồi vỡ và hũ rò
Nồi vỡ hàn lại, thì vẫn là nồi tốt, và có thể đun đồ ăn uống; hũ rò đánh đai tre vào, thì vẫn là hũ tốt, mà có thể đựng nước tương.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo hỏng rồi lại lành. Con người lúc mới sinh, Tam Bảo Tinh Khí Thần, hỗn độn ngưng kết; đến lúc tri thức khai mở, lục căn môn đầu, chỗ nào cũng rò rỉ; thất tình nghiệp chủng, chủng nào cũng xâm hại làm bị thương; Tam Thi làm loạn, Ngũ Tặc tạo tai ương; tửu, sắc, tài, khí làm mê Tính; tham, sân, si, ái làm hao Chân; ngày phá đêm chết, Tam Bảo tiêu hóa; toàn thân là bệnh, trong ngoài bại hoại, đem Bản Lai Hỗn Thành Chi Bảo biến thành vật thối nát bất kham, như nồi vỡ hũ rò, thành đồ vật vô dụng. Nếu biết mãnh tỉnh hồi đầu, thay da đổi thịt, cúi xem tất cả, vạn duyên đều không; xếp đặt lại tài sản, tái tạo kìm búa, ở chỗ thiết thân đến Tính Mệnh, phải việc thật làm thật, đem cái vật có sau, thứ thứ quét đi hết sạch; thu liễm anh hoa, nhốt chắc tạp niệm, bỏ Giả tồn Chân, trừ tà phù chính; vi công nhật tăng, vi đạo nhật giảm , tăng rồi lại tăng, giảm rồi lại giảm, thẳng đến lúc tăng mà không có gì để tăng, giảm mà không có gì để giảm, tự nhiên không lậu Tinh thì Tinh toàn vẹn, không hao Khí thì Khí toàn vẹn, không lao Thần thì Thần toàn vẹn; cái đã mất lại có, cái đã hỏng lại lành, vẫn là vật hỗn thành không hao tổn năm xưa; cũng như nồi vỡ hàn lại, vẫn là nồi tốt, hũ rò đóng đại, vẫn là hũ tốt. Sao mà người người phá lậu, không biết thống khổ, lấy Giả nhận Chân, ngày đêm phá hỏng, càng nhanh phá lậu, đến lúc cột nát tường rã, phòng ốc tứ tán, chẳng chỗ mà an thân, chỉ được tìm chỗ ở khác, ở trong lục đạo luân hồi, chạy loạn cả lên.
Anh nhi vô tâm - Trẻ nhỏ vô tâm
Trẻ nhỏ thì mãnh hổ không làm bị thương, ưng đói không vồ bắt, sao mà được như vậy? Là vì vô tâm đó.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo vô tâm diệu dụng. Con người không thể thành Đạo đều là do có tâm; có tâm là có ta, có ta là có người; hơi có phân biệt ta người thì sẽ mưu đồ lợi kỉ, chẳng đoái hoài là làm tổn thương người, cơ mưu bách xuất, thần đầu quỷ diện, tư dục loạn náo, thiên lương tối tăm, Đức còn không thể tích, sao dám vọng tưởng Đạo? Nếu là kẻ sĩ chân chính mộ đạo, hãy nhanh chóng lật quả núi ta người, nhanh chóng li khai con đường khúc khuỷu; giữ thân ứng thế, xem đồng đây đó, cao thấp một loại; theo vật mà giúp vật, tùy sự chế sự, ứng đối mà không nạp, qua thì không lưu, vạn ban cảnh ngộ, đều lấy vô tâm mà xử lí. Vô tâm thì vô tư, vô tư thì nội tịnh, nội tịnh thì thuần bạch không vết, hồn nhiên thiên lí, gọi là Huyền Đức. Huyền Đức vô hình vô tích, không thấy không nghe, mới là hợp đức cùng trời đất, hợp sáng cùng nhật nguyệt, hợp thứ tự cùng bốn mùa, hợp cát hung với quỷ thần, tạo hóa không thể trói buộc, vạn vật không thể làm bị thương.
Trẻ nhỏ kia không hay không biết, chỉ vô tâm mà hổ ưng còn không thể làm bị thương, huống gì vô tâm mà hữu thể hữu dụng, Đạo Đức lưỡng toàn, tất cả tai họa bên ngoài, sao có thể xâm hại được?
Trúc cơ khởi ốc - Làm móng xây nhà
Phòng ốc bền lâu hay không bền lâu, toàn ở lúc bắt đầu làm móng. Nền móng kiên cố, phòng ốc vững vàng thì bền lâu; nền móng mới gần xong, thì phòng ốc để lâu sẽ bị nghiêng; đây là cái lí nhất định.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo tu chân ngộ bản. Tu chân đầu tiên phải Luyện Kỷ giữ tâm. Luyện Kỉ thì tư dục bỏ đi, giữ tâm thì chí niệm kiên cố. Tư dục bỏ đi, chí niệm kiên cố, thì căn bản ổn thỏa không động không dao, sau đó hòa hợp Tứ Tượng, hội tụ Ngũ Hành; trộm Âm Dương, đoạt tạo hóa; tu Tính tu Mệnh, tiến lên phía trước, thâm tạo tự đắc, đến đâu cũng lợi; cũng như nền móng làm kiên cố, mà sức nặng của gỗ đá gạch ngói, không gì không chở được. Nếu căn bản không vững, chí niệm không chuyên, lúc đây lúc đó, mới đầu thì chăm cuối cùng thì lười, thì càng làm càng mất, muốn tiến lên phía trước, mà ngược lại lùi về sau, uổng phí công lực, cũng như nền móng mới sắp xong, tuy dựng phòng ốc lên, mà lâu ngày bị nghiêng lệch vậy.
Đan phòng khí mãnh - Đan phòng và bát đĩa
Luyện thuốc cần tại đan phòng, đựng thuốc phải dùng bát đĩa; nếu không có đan phòng không có bát đĩa, thì chẳng có chỗ đặt vạc đặt lò, không có chỗ mà chứa dược vật. Đan phòng và bát đĩa này, là cái mà thiêu luyện gia phải dùng vậy.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo mượn Giả tu Chân. Sắc thân con người như đan phòng; ngũ tạng trong thân như bát đĩa. Trong sắc thân có tàng Chân Thân, trong ngũ tạng có tàng Ngũ Hành. Tu chân không phải là tu sắc thân ngũ tạng mà là tu Chân Thân, luyện Ngũ Hành, chẳng qua là nhờ vào cái Giả của sắc thân ngũ tạng này, mà rèn luyện cái Chân của Chân Thân Ngũ Hành vậy.
Chân là Chân nào? Ngũ Hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Tâm giống Hỏa, Đức của nó là Lễ; Thận thuộc Thủy, Đức của nó là Trí; Phế thuộc Kim, Đức của nó là Nghĩa, Can thuộc Mộc, Đức của nó là Nhân, Tì thuộc Thổ, Đức của nó là Tín. Mộc Kim Hỏa Thủy Thổ, là Tính của Ngũ Hành; Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín là Đức của Ngũ Hành; đây là cái Chân mà Tiên Thiên vốn có. Còn đến Tâm tàng Thần, phát ra thì thành lạc; Thận tàng Tinh, phát ra thì thành ai; Phế tàng Phách, phát ra thì thành nộ; Can tàng Hồn, phát ra thì thành hỉ; Tì tàng Ý, phát ra thì thành dục; đây là cái Giả mà Hậu Thiên vốn có.
Từ lúc sinh ra đến nay, Tiên Thiên hỗn độn vào trong Hậu Thiên, Hậu Thiên hỗn độn vào trong Tiên Thiên, bác tạp chẳng thuần, nếu chẳng luyện hết cái Giả của Hậu Thiên, thì Tiên Thiên không khôi phục lại. Nhờ Hậu Thiên mà luyện Tiên Thiên, dùng Tiên Thiên để hóa Hậu Thiên; Hậu Thiên hóa hết, Tiên Thiên thuần toàn, thoát xuất một hạt Quang Minh Bảo Châu, thông thiên triệt địa, tung hoành ngược xuôi, rõ ràng đâu ra đấy; công hoàn hạnh mãn, đả phá hư không, bạch nhật phi thăng, huyết nhục bì nang vô dụng, bỏ mà đi; cũng như thiêu luyện gia khi thuốc thành, thì đan phòng và bát đĩa thành vô dụng vậy. Người ngu không biết ngụ ngôn trong Đạo, ở những vật hữu hình hữu tượng đan phòng bát đĩa đoán bừa làm loạn, đó là “Trong Đỉnh nếu không có Chân Chủng Tử, như đem nước lửa nấu nồi không” vậy. Cổ tiên nói: “Đừng chấp thân này nói là Đạo, cần biết ngoài thân có Chân Thân”. Kẻ dụng công phu ở da thịt, với kẻ phí tâm tư vào bếp lò bằng sắt đá ở thế gian kia, há không ngu sao!
Mao thư khoa đẩu - Tằm và nòng nọc
Tằm kết kén, nòng nọc kết bao, lâu thì kén phá xuất ra con ngài, bao mở xuất ra con ếch.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo thoát hóa Thánh Thai. Kẻ tu chân hội tụ Ngũ Hành, hỗn hợp Bách Thần, hồn nhiên Thái Cực, Nhất Khí ngưng kết, hỗn hỗn độn độn, không biết không hay; Thánh Thai hữu tượng, như tằm kết kén, nòng nọc kết bao; trập Thần tàng Khí, hoảng hoảng hốt hốt, yểu yểu minh minh, một chút Linh Căn từ bé thành to, từ non thành cứng; đại công đến ngày, đột nhiên đả phá hư không, lộ xuất Thanh Tĩnh Pháp Thân, nhảy ra ngoài Tam Giới; cũnh như tằm hóa ra ngài, phá kén bay lên, nòng nọc hóa thành ếch, thoát xác nhẩy ra; thân ngoại hữu thân, riêng một thế giới. Nên sau khi Đạo thành, hoặc là vũ hóa phi thăng, hoặc là thoát xác thành chân, là nói trong nhục thân, lại sinh ra một Chân Thân vậy. Chân Thân này ai ai cũng có, ai ai cũng gặp, chỉ vì con người bị trần duyên mê mẩn, ảo tưởng làm mê hoặc, gặp mặt mà không biết; nếu có người biết được, cần cù tu nó, vô chất sinh chất, vô hình sinh hình, thoát hóa thành tiên, thành tấm thân Kim Cương Bất Hoại.
Kì kí nô đài - Ngựa giỏi và ngựa kém
Ngựa giỏi thì giỏi chạy, một ngày ngàn dặm; ngựa kém thì đi chậm, mười ngày mới tới; tuy tốc độ nhanh chậm khác nhau, mà thành công chỉ là một.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo công lực nhanh chậm. Phàm tính con người có thông minh ngu độn, sức lực có mạnh yếu. Người tính ngu độn lại muốn bắt chước người thông minh; người yếu lại muốn bắt chước người khỏe; là quạ khoang mà muốn đi theo đại bàng, thì không chỉ không thể đuổi theo, mà còn là bị thương đôi cánh, than ôi có thể sao! Nên bậc chí thánh nói: “Người sinh ra đã biết là bậc thượng trí. Người học mà biết là bậc thứ; vất vả cố gắng mà học thì mới biết là dưới cả bậc thứ; mà đến lúc biết rồi cũng là một thôi. Hoặc nhẹ nhàng mà thi hành; hoặc sắc sảo nhanh nhẹn mà thi hành; hoặc miễn cưỡng mà thi hành; đến lúc thành công thì là một vậy”. Ba loại người này, tuy có phân ra khó dễ nhanh chậm, mà đều có thể biết để thành Đạo, chỉ lo người không có chí khí vậy. Không có chí khí không chỉ không thể thi hành, mà tịnh không thể biết. Nếu có chí khí, học rộng về nó, thẩm vấn nó, cẩn thận suy tư về nó, biện rõ nó, thi hành chuyên nhất nó, người ta làm một thì ta làm trăm, người ta làm mười thì ta làm ngàn.
Nếu biết Đạo này, thì tuy ngu tất có lúc sáng, tuy yếu tất có lúc mạnh, chưa có ai không đến được chỗ thâm tạo tự đắc. Sao mà thiên hạ đạo nhân, phần nhiều không thể chân tâm thật ý coi Tính Mệnh là đại sự, miệng đạo đức mà tâm đạo chích; vừa muốn tưởng Đạo, vừa muốn tham lợi mưu đồ; va chạm là liền động hỏa; một câu một chữ, đều không thể nghe; kẻ thông minh thì tự cậy tài năng, lòng nhớ vài tông công án, tai nghe vài câu nói suông, tự phụ là có Đạo, mục trung vô nhân, chẳng chịu đi cầu minh sư, phỏng lương hữu, tự làm lỡ tiền trình. Người ngu độn không biết cùng lí, không biện rõ tà chính, học chút công phu bàng môn, làm việc ở đường rẽ, cũng cho là có Đạo; lại không chịu chứng ở bậc cao minh, chung thân giữ chặt, vững không thể phá. Như cái bọn đó, là không nghĩ rằng việc về Tính Mệnh là việc lớn nhất trong thiên hạ, tu trì Tính Mệnh là việc khó nhất trong thiên hạ, há là dễ dàng mà biết, dễ dàng mà thành? Vì thế người học Đạo như lông trâu, mà người thành Đạo như sừng lân. Nếu là bậc trượng phu thiết hán, vạn hữu giai không, cúi nhìn tất cả, bước chân vào thẳng, kim cương bách luyện, một chút không hồi, phỏng bái minh sư, tinh nghiên thật lí, thì bất luận là thông minh hay ngu độn, cuối cũng lâu dài sẽ có ngày xuất đầu, quyết không uổng trải qua năm tháng.
Hồng hoa lục diệp - Hoa hồng lá xanh
Hoa hồng tuy tốt, phải dùng lá xanh để phù trì. Có hoa mà không có lá, thì hoa không tươi sáng; có hoa lại có lá, hoa càng thêm sắc.
Ta xem điều đó, bèn ngộ ra Đạo đạo đức theo nhau. Đạo là việc để thành ta; Đức là việc để lợi vật. Tu Đạo là công phu bên trong. Tu Đức là hành vi bên ngoài. Kẻ sĩ ôm đạo từ xưa, chưa có ai không tu Đức cả. Đạo như hoa, Đức như lá; hoa nhờ lá phù trì, Đạo nhờ Đức thành toàn; hoa lá chẳng rời, Đạo Đức theo nhau. Thánh nhân ngày xưa, đầu tiên tu Đạo, sau đó tu Đức; hiền nhân thời cổ, đầu tiên tu Đức, sau đó tu Đạo. Thánh nhân là bậc thượng trí; hiền nhân là bậc trung nhân. Thánh nhân thì nhất liễu bách đương , trực tiếp lên bờ Đạo, tu Đạo dễ dàng, nên đầu tiên tu Đạo sau đó Đức, dùng Đức để toàn Đạo; hiền nhân cần phải hữu vi, tu Đạo khó khăn, nên đầu tiên tu Đức, sau đó tu Đạo, dùng Đức phù trợ Đạo. Người học Đạo, là bậc thượng trí thì chỉ có vài người trong vạn người; người trung hạ thì không thể đếm hết. Người trung hạ, căn cơ nông, kiến thức ít, nghiệt khổ lớn, căn trần sâu, đầu tiên phải tích Đức; Đức trọng có thể phục quỷ thần, có thể động trời đất, có thể cảm động người vật; dùng đó để học Đạo, thì Đạo dễ học; dùng đó để hành Đạo, thì Đạo dễ thành. Đạo là Thể của Đức; Đức là Dụng của Đạo. Chỗ cực của Đức gọi là Huyền Đức, Huyền Đức sâu xa không thể dò được, là sắp đến Đạo vậy, nên học Đạo, hành Đạo dễ.
Người học ngày nay, không tích dù chỉ một Đức, không lập dù chỉ một hạnh, ngẫu nhiên nghe nửa câu một chữ, không biện rõ thị phi tà chính, mà liền khinh suất hạ thủ, vọng tưởng thành tiên; không nói không thể đắc Chân, mà dù đắc được Chân, thì tự cổ chí kim, chưa có tiên nhân vô công vô hạnh; huống gì Đại Đạo chẳng phải người đại trung đại hiếu thì chẳng truyền, chẳng phải người đại hiền đại đức thì không trao, chân sư chiếu soi vạn dặm, há dám đem Chân Bảo giao cho kẻ xấu. Còn có một dạng người ngu hồ đồ, không biết cước đạp thật địa cần cù thi hành công hạnh; vừa mới gặp chân sư, đã không kính tâm cầu giáo, nói dối nói lừa, vọng tưởng lừa người tiết lộ Thiên Cơ, thừa dịp trộm lấy; vừa dụng công không kiên trì, ba buổi hai ngày liền cầu truyền thụ, cầu mà không được, là liền bỏ đi; phản xuất lời oán thán, hủy báng đủ kiểu; giữ tâm như vậy, chạy đông chạy tây, tự uổng phí mòn giày, mà một đời lận đận, cuối cùng không chút thành công. Thật không biết Đạo không rời Đức, Đức không rời Đạo, há có thể bỏ Đức mà chỉ nói Đạo, cũng há có thể rời Đức mà độc tu Đạo! Nên người tu Đạo đầu tiên không thể không tích Đức.
Chú: [Ngộ Đạo Lục] gồm 80 điều.
Mục lục
Thiên cao địa hậu - Trời cao đất dày 4
Nhật nguyệt quy lâm - Nhật nguyệt chiếu soi 5
Lôi minh phong xuy - Sét gầm gió thổi 5
Tứ thì đại tạ - Bốn mùa thay đổi 6
Nguyệt tá nhật quang - Mặt trăng nhờ ánh sáng của mặt trời 6
An Lô lập Đỉnh - Đặt lò dựng vạc 7
Dương Toại Phương Chư 7
Khương lang sư thú - Bọ hung sư tử 8
Hắc Diên Thủy Ngân - Chì đen và thủy ngân 8
Lộng ảnh vũ tượng – Đùa hình gạt tượng 9
Chủng thử chủng ma - Gieo kê gieo vừng 9
Tiếp đào tiếp hạnh - Nối đào nối hạnh 10
Phát hóa thủy xà - Tóc hóa rắn nước 10
Hạc thai Quy tức - Thai của Hạc, hơi thở của Rùa 11
Thủy đống băng tiêu - Nước đông và băng tan 11
Mộc mậu thủy trường – Cây tốt tươi, nước chảy dài 12
Tùng tâm trúc tiết – Lõi cây tùng và đốt cây trúc 12
Mộc thán phôi chuyên - Than củi và gạch nung 13
Thi nhục thi phát – Thịt và tóc người chết 13
Thủy thượng hỏa hạ - Nước trên lửa dưới 14
Qua quả tử nhân - Hột và nhân quả dưa 14
Hỗn thủy cấu kính - Nước đục và kính bẩn 15
Động nhiệt tĩnh hàn - Động nóng tĩnh lạnh 15
Cao đài đại thụ - Đài cao và cây lớn 16
Oa thật đột tiêu – Chỗ trũng đầy lên, chỗ nhô lên thì tiêu đi 16
Lí ngư lão hồ - Cá chép và cáo già 17
Thần long biến hóa 17
Khô mộc hàn hôi - Gỗ khô tro lạnh 18
Cận chu cận môi - Gần đỏ gần than 18
Anh nhi thiên chân - Thiên Chân của trẻ nhỏ19
Thác thược vận dụng – Vận dụng ống bễ 19
Đẩu Bính nguyệt kiến - Chuôi sao và nguyệt kiến 20
Điên hán túy nhân - Người điên và người say 20
Đề cương đề lĩnh – Nâng cương nâng lĩnh 21
Đào kim giản ngọc – Đãi vàng tìm ngọc 21
Kết cao thủ thủy – Bánh xe lấy nước 22
Thảo mộc hoa thật - Cây cỏ đơm hoa kết quả 22
Mộc ngẫu nê thai - Tượng gỗ và tượng đất 23
Đăng quang chúc lượng - Ánh đèn ánh nến 23
Khúc tửu mễ chúc - Men rượu và cháo gạo 24
Chung minh cổ hưởng - Tiếng chuông tiếng trống 25
Khôi lỗi phong tranh - Bù nhìn và cánh diều 25
Anh vũ thạch hầu - Vẹt và Khỉ 26
Du giáp tề mạch - Cây du, cây đậu, câu tật lê, cây lúa mạch 26
Tư thủy tư hỏa - Nghĩ đến nước, nghĩ đến lửa 27
Hướng nam hướng bắc 27
Trảm thảo tài thụ - Nhổ cỏ, vun cây 28
Bình mãn bình bán - Bình đầy bình vơi 28
Khí mãnh trang sức - Trang điểm cho bát đĩa 29
Hữu hình hữu khí - Có hình có khí 29
Không cốc truyền thanh - Hang trống truyền âm 30
Đẳng xứng xích trượng - Cân và thước 31
Phiệt tử thuyên tăng - Bè gỗ và nơm đó 31
Trập trùng phục sinh - Trùng ngủ đông sống lại 32
Bạng châu kê noãn - Ngọc trai và trứng gà 32
Phượng hoàng khổng tước - Phượng hoàng và chim công 33
Nhật trung nguyệt doanh - Mặt trời ban trưa và trăng tròn 34
Thụy nhân tác mộng - Người ngủ nằm mơ 35
Thương cổ mưu lợi - Buôn bán mưu lợi 35
Điên viên liệt mã - Vượn điên và ngựa bất kham 36
Nam nữ sinh dục – Nam nữ sinh đẻ 37
Khai môn yết song - Mở cửa và mở cửa sổ 38
Môi phinh tác hợp – Mai mối tác hợp 38
Thực vật thường vị - Ăn và nếm 39
Thượng sơn độ hà - Lên núi, qua sông 40
Đăng nga khâu dẫn - Thiêu thân và giun đất 41
Tàm ti phong mật - Tơ tằm và mật ong 41
Tha gia tá chủng - Trồng nhờ nhà khác 42
Quy tàng ngư tiềm - Rùa lẩn cá lặn 43
Du hạc thán hóa - Dầu khô và than hóa 43
Nê liên sương cúc - Sen trong bùn, cúc trong sương 44
Đăng lung lô tráo - Chao đèn và che bếp 45
Vật viên vật phương - Vật vuông vật tròn 45
Oa phá úng lậu - Nồi vỡ và hũ rò 46
Anh nhi vô tâm - Trẻ nhỏ vô tâm 47
Trúc cơ khởi ốc - Làm móng xây nhà 47
Đan phòng khí mãnh - Đan phòng và bát đĩa 48
Mao thư khoa đẩu - Tằm và nòng nọc 49
Kì kí nô đài - Ngựa giỏi và ngựa kém 50
Hồng hoa lục diệp - Hoa hồng lá xanh 51
Đăng nhận xét
Chúng tôi trân trọng và biết ơn tất cả những ý kiến đóng góp của quý Đạo hữu.